Thứ Bảy, 5 tháng 1, 2013

Bóng Ngày Qua 2

lon to << Lùi - Tiếp theo Trang 2 trong tổng số 2 Đà Lạt Hôm sau, anh và con ra bến xe đi Đà Lạt. Chuyến đi khởi đầu bằng việc người tài xế nhồi nhét thêm hành khách không mua vé nhưng trả tiền thẳng cho tài xế. Hành khách đi xe kiểu này rẻ hơn vì không phải trả trọn tiền vé. Chiếc xe có thể chở được mười sáu người, bây giờ hơn hai chục. Sự bực bội của anh vì cái viễn ảnh bốn, năm tiếng đồng hồ trên băng ghế chật chội lại càng tăng thêm vì kiểu chạy xe bạt mạng của người tài xế trẻ. Anh tự trách đã tự mình đem giao sự an toàn của mình và con vào tay anh tài xế lái ẩu. Anh không đi bằng máy bay vì phi trường Liên Khương khá xa trung tâm thành phố Đà Lạt. Những ý tưởng hắc ám về những tai nạn xảy ra vì xe đò không được bảo trì đúng mức, chẳng hạn thắng xe quá cũ bị hư, bánh xe nổ vì đã quá mòn, v.v... cứ ám ảnh anh. Phải, ngay bên Canada, vấn đề xe vận tải vi phạm luật lệ an toàn từng được đặt ra, huống chi ở đây vấn đề thanh tra chắc chắn rất sơ sài. Nếu chỉ một mình anh, anh còn có thể tha thứ cho sự ngu xuẩn của mình, nhưng đàng này còn con anh... Anh định nói người tài xế ngừng lại giữa đuờng để anh tìm xe quay lại Nha Trang rồi đi bằng máy bay, hay bằng một cách khác. Anh càng tức bực thêm khi trông thấy trên băng ghế chật chội phía trước cạnh tài xế, gã đàn ông kia cứ dí sát cái mồm vào má "thằng" tài xế để nói qua tiếng ồn của xe, của gió, trong lúc "thằng" tài xế nhấn ga phóng xe như không có ngày mai. Anh đưa tay vỗ mạnh vào vai gã đàn ông dằn giọng: - Này ông! Để cho anh ta chú tâm lái xe đi ông! Gã đàn ông hơi giật mình, quay lại nhìn anh, rồi cũng ngưng nói, nhìn thẳng ra phía trước. Xe đi qua Cam Ranh, rồi Phan Rang, rồi bắt đầu đi lên đèo Ngoạn Mục. Qua đèo không nguy hiểm như anh đã trông đợi, vì xe phải chạy chậm trên con đường rất chật, nhưng thỉnh thoảng, "cái thằng tài xế ngu" vẫn lái văng mạng, không thèm giảm tốc độ ở những khúc quanh, hay những chỗ đỉnh dốc, không trông thấy được xe chạy ngược chiều. Đường đèo quanh co, có những chỗ từ trên cao nhìn xuống trông như cảnh trí của một hòn non bộ, nhưng anh chẳng có tâm địa nào để ngắm. Ngọn đèo vẫn như trong trí nhớ anh của lần đi từ Sài Gòn lên Đà Lạt một Tết năm xưa, lâu lắm rồi bằng xe anh Vương, anh của anh. Không khí càng lúc càng mát mẻ dễ chịu, rồi xe đến Bảo Lộc, đến núi Voi, làm anh hồi tưởng lại ngày còn bé cả nhà đi thăm một nông trại của một gia đình ông bạn của ba anh, với những món thịt hươu nai, heo rừng, thỏ, gà mà ông ta săn được. Xe đến Liên Khương, rồi cuối cùng Đà Lạt. Xe vào đến bến, anh cảm thấy nhẹ nhõm như trút được gánh nặng. Anh nhìn quanh cái bến xe xơ xác với cảnh buôn gánh bán bưng, kể cả cái lồng tre to thường dùng đựng gà, trong đó là những con chó con bị nhồi nhét chặt cứng, nghoẹo đầu, nghoẹo chân, mắt trợn lồi vì ép sát vào lồng, không cựa quậy được. Những con vật tội nghiệp có lẽ sẽ là những dĩa thức ăn trong mấy quán nhậu đặc biệt. Nỗi thống khổ của một loài thú gần gũi nhất với loài người nói lên nỗi thống khổ của những con người xung quanh chúng. Cái cảnh đầu tiên anh được chứng kiến khi đặt chân xuống thành phố cũ của thuở ấu thơ là thế đó Nhóc tì ạ. Sau hơn hai tuần lễ ở Sài Gòn, Vũng Tàu, Hòn Đảo, và Nha Trang, anh đã thấy nhiều công trình kiến trúc mới, những khu giải trí, thiết kế theo khuôn mẫu tây phương, nhằm lôi kéo du khách, trong khuôn khổ của kỹ nghệ du lịch, một ngành kỹ nghệ chính của kinh tế Việt Nam. Người ta tiếp tục xây cất những trung tâm giải trí mới ngay cả ở hòn đảo còn đầy vẻ nông thôn mà anh đã viếng. Và Đà Lạt cũng không rơi ra khỏi trào lưu phát triển đó. Những công trình đầu tư lớn lao, vượt xa những kiến trúc sơ sài của ba mươi năm trước. Nhưng những khu giải trí tân kỳ ngày nay có cái vẻ quen thuộc đến nhàm chán của những khu tương tự bên trời tây, nên thăm viếng những nơi đó không để lại cho anh một chút hứng thú nào. Nghĩ cho cùng, khi mục đích của chuyến đi là đi tìm kỷ niệm, thì những gì mới lạ sau này, sẽ rất nhạt nhẽo đối với anh. Anh còn nhận ra rằng, ngay cả khi anh về những nơi đầy ắp quá khứ, dù có con anh bên cạnh, một nỗi khắc khoải, không nguôi ngoai, một nỗi cô đơn cứ bám lấy tiềm thức. Và anh đã biết nguyên nhân của nỗi cô đơn đó. Nhóc tì ạ, anh có thể hình dung Nhóc tì sẽ vờ vịt nhướng mắt "ngây thơ" hỏi: - Tại sao đi tìm kỷ niệm mà rốt cuộc lại cảm thấy cô đơn hở anh ? Anh sẽ đưa tay ra kéo em ngả vào lòng, lấy ngón tay ấn vào mũi em: - Tại vì thiếu bò con đó. Đi tìm kỷ niệm hay đi xây kỷ niệm cũng cần có bò con bên cạnh anh bò con ạ! Hôm thứ hai sau khi đặt chân đến Đà Lạt, anh tìm đến khu cư xá cũ trường Trần Hưng Đạo, khung cảnh đầy kỷ niệm ấu thơ của anh. Trong cơn gió lành lạnh, vang tiếng cười rộn rã của những đứa trẻ cùng lứa, Huy xúng xính trong chiếc áo len ca-rô nâu và đen, cổ rộng, bên trong là chiếc áo sơ-mi, may theo kiểu riêng của mẹ, cổ cao như kiểu cổ áo dài, "để gió khỏi làm lạnh ngực, rồi ho", bên ngực trái của áo là một bộ phận quan trọng, không thể thiếu của bất cứ chiếc áo nào mẹ may, đó là cái túi "để cho Huy đựng lạc rang nóng hổi!". Cái cảm giác ấm nóng, đến độ gần như muốn bỏng da, của những hạt lạc mới rang xong trong cái chảo gang đựng cát, chưa tróc vỏ, chỉ trong chốc lát, trở thành hơi ấm toả ra thật dễ chịu, thấm qua lớp vải áo, thấm vào làn da ngực. Một túi đầy ắp lạc rang cũng kéo dài được bốn năm cuộc chơi đi trốn đi tìm, để rồi Huy lại chạy về xin mẹ thêm một túi nữa. Huy dắt chiếc xe đạp nhỏ ra khỏi nhà, leo lên đạp đi kiếm thằng Kiên rủ chơi bi. Trên quãng đường lát đá quen thuộc "của mình" mà Huy vẫn đi qua hàng ngày, từ xa Huy đã thấy con bé Bích Vân đang loay hoay vẽ vẽ cái gì trên mặt đá. Huy đạp xe đến, tay bấm chuông liên tục, miệng hét "tránh ra, tránh ra mau!" Nghĩ là con bé sẽ sợ mà tránh sang một bên, ai dè, nó đứng lên gan lì dang hai tay chặn, như muốn... tự tử! Huy giảm tốc độ, nhưng vẫn đạp tới, và khi đến gần đành thắng mạnh vì Bích Vân vẫn đứng yên! Chiếc xe và Huy ngã lăn kềnh. Bích Vân bị đụng vào chân, chắc khá đau, rơm rớm nước mắt, đứng lên, tập tễnh đi vô nhà nó. Huy vừa hối hận, vừa sợ, dựng xe lên, đạp về nhà mình, rồi cất xe, thập thò nhìn sang nhà ông bà Bửu Vũ, ba mạ của Bích Vân. Một hồi lâu, thấy không động tĩnh gì, Huy từ từ đi ra để nhập vào bọn thằng Kiên, thằng Thạch chơi bi. Còn đang đứng đợi cho tụi nó chơi xong bàn bi, Huy thấy có người vỗ vai, quay lại thì ra bà Bửu Vũ. Bà nói: - Con vào đây bác nói cái này... Biết bà Bửu Vũ gọi mình vô vì chuyện gì rồi, Huy bẽn lẽn đi theo bà. Qua khỏi cửa, bà Bửu Vũ dịu dàng nói: - Có phải con đạp xe tông vào Bích Vân không ? Vừa nói bà vừa cúi xuống vén ống quần Bích Vân lên chỉ cho Huy thấy vết bầm và xước da rơm rớm máu. Huy ngượng ngùng gật đầu: - Vâng Bà Bửu Vũ tiếp: - Em nó đau lắm đó, con biết không ? Huy gật đầu lí nhí: - Dạ biết... Bà vuốt tóc Huy rồi nói: - Lần sau con đừng làm vậy nghe. Huy đáp: - Vâng. Bà Bửu Vũ đứng lên, Huy chào bà rồi đi ra, trong đầu còn vang vang giọng Huế dịu dàng của bà Bửu Vũ. Lần đầu tiên trong đời, một người không phải là mẹ mình gọi mình là "con", Huy nghe hơi là lạ. Bà còn gọi Bích Vân là "em" nữa! Xưa nay hai đứa cùng tuổi, học cùng lớp, thỉnh thoảng có việc gì bất đắc dĩ phải nói với nhau trong lớp, chẳng hạn Huy phải mượn tập vở của Bích Vân để chép bài khi ốm, và mỗi lần như vậy toàn "trò" với "tôi" trong lớp, và... "mày" vơi "tao", ngoài lớp, trao đổi mấy câu cụt ngủn, chứ có bao giờ nói với nhau được câu nào tử tế đâu, bây giờ bỗng nhiên bà Bửu Vũ gọi nó là "em" với mình, nghe vừa êm tai vừa ngượng nghịu... Anh đứng dưới chân dốc nhìn lên ngôi nhà hai tầng, tường vôi loang lổ, mái ngói cũ kỹ nham nhở, mỗi góc cạnh của ngôi nhà gợi nhớ một kỷ niệm ấu thơ. Cái ban-công gỗ đỏ không còn nữa, nhưng nó là nơi anh Việt cùng Kim, người giúp việc nhà, hay dùng làm "vọng gác" nhìn xuống vườn sau canh chừng những con chó lạ lẻn đến vào ban đêm bắt và ăn thịt những con thỏ nuôi ở góc vườn. Nhóc tì à, em không thể tưởng tượng được nỗi háo hức của anh mỗi sáng nghe anh Việt và Kim kể lại việc hai người dùng đá làm "bom", từ trên ban công, ném đuổi những con chó ăn trộm đêm trước. Anh thèm được dự vào những cuộc "phục kích" đó lắm, nhưng không đêm nào anh chống được cơn buồn ngủ để thức cho đến lúc bóng đen của những con chó lạ vạch hàng rào chui vào, xuất hiện nơi góc vườn, để rồi sáng hôm sau lại ấm ức nghe kể lại diễn tiến của cuộc phục kích đầy hồi hộp của hai người đó, quá nửa khuya đêm hôm trước. Khu vườn sau cũng là nơi mỗi anh em chiếm một ô đất nhỏ trồng mỗi thứ một ít, từ hoa đến rau xà-lách, đến hành, đến cà rốt cho thỏ ăn. Việc trồng trọt khi đó thật dễ dàng. Dường như bất cứ thứ hoa trái, rau cỏ nào cắm xuống đất đều mọc lên rất nhanh. Bây giờ khu vườn đã bị lấp đi bởi mấy mái nhà lụp xụp. Khung cửa kính nhìn xuống vườn sau, nơi ba ngồi đọc báo mỗi đêm, cũng gợi nhớ một kỷ niệm khác. Đó là lần anh lên bảy tuổi, vì không được theo ba me ra phố, vừa khóc vừa dùng tay đập vào cửa ki’nh, không may làm kính bể, rồi bị ba đánh đòn. Anh như còn nghe tiếng gió của một mùa Đông năm nào, rít qua lá thông ngoài trời, trên mái nhà, và ập vào lạnh buốt mỗi khi cửa mở, để cảm nhận được cái ấm áp êm đềm dưới lớp chăn bông trong căn phòng ngủ, tay cầm quyển truyện trẻ con anh Việt mượn hộ ở thư viện công cộng trên đường Yersin, hay lấy từ chính cái thư viện nhỏ của anh Việt ở tầng dưới nhà. Trong cái buồng nhỏ vuông vức phía bên phải cửa ra vào, những quyển sách bọc cùng một thứ giấy dầu, giống nhau, trên gáy ghi số và tựa sách, xếp ngăn nắp trên những kệ đóng dọc theo tường, trông như một cái thư viện công thu nhỏ. Đối diện cửa thư viện là cầu thang đi lên tầng trên, có tay vịn cầu thang bằng gỗ rộng bản, đã bóng lại còn bóng thêm vì hàng ngày được chùi bởi đũng quần của mấy anh em nhảy lên dùng nó như một chiếc cầu tuột. Trí nhớ anh ắp đầy những kỷ niệm về hồ Vạn Kiếp ở dưới kia, về những trưa hè theo anh Việt đi câu cá. Nhìn những con cá cơm to bằng đầu ngón tay vùng vẫy nơi đầu cần câu, hay giúp anh Việt làm thịt cá, bứt đầu, moi ruột, lăn bột, rồi chiên là những giây phút hãnh diện và sung sướng nhất của tuổi thơ. Từ dưới đường nhìn sang phía trái ngôi nhà cũ của anh là quãng dốc cong dẫn lên cổng cư xá, nơi có nhà ông Bửu Vũ, bây giờ cũng xơ xác không tu bổ, anh như còn trông thấy bóng con Tô chạy xuống đón xe ba đi làm về, để rồi phóng theo sau xe cho đến khi xe ngừng hẳn. Khoảng đường cư xá giữa nhà Bích Vân và nhà anh, xưa kia rộng và quang đãng, bằng ba sân tennis ghép lại, đứng ở đó có thể ngó xuống hồ và tầm nhìn phóng đến tận những dãy đồi khu Mả Thánh xa tít. Bây giờ khoảng trống đó bị thu hẹp lại thành con đường hẻm, vì những túp nhà lụp xụp dựng lên sau này, kẽm gai vây quanh từng nhà. Nhà anh cũng như hầu hết những nhà khác trong cư xá đều được người Pháp xây cùng một kiểu. Mỗi nhà đều có hai tầng, có lò sưởi củi, mái ngói nhọn, một bên dốc, môt bên thoai thoải, đặc điểm của những nhà vùng cao nguyên. Khu cư xá rất rộng dành cho công chức, chiếm cả một vùng đồi thông. Bây giờ khung cảnh cũ đã biến thành một bức tranh bần cùng, buồn rầu. Tầm nhìn rất bao quát, khoảng khoát của thời ấu thơ, bây giờ bị che lấp bởi những chắp vá, rách rưới của những túp nhà gỗ ọp ẹp. Anh chỉ cho Thiên những gì còn lưu lại của ngày còn bé của mình, chụp mấy bức hình có lẽ là những hình ảnh cuối cùng về quê hương để mang về bên kia. Anh và con lên chiếc xe taxi thuê, rời khu cư xá cũ trường Trân Hưng Đạo đi đến trường Bùi thi Xuân, trường tiểu học năm xưa của anh. Trước kia trường Bùi thị Xuân gồm hai dãy nhà lầu hai tầng, một ở bên trái, một ở bên phải, giữa là sân cờ. Bây giờ có thêm một toà nhà hai tầng nữa hợp cùng với hai dãy nhà kia tạo thành hình chữ U. Những dãy hành lang nối ba toà nhà với nhau cũng là kiến trúc mới sau này. Thêm vào ba dẫy lớp học hai tầng là một nhà chệt văn phòng nằm trên khoảng sân trống ở giữa. Toàn thể ngôi trường vẫn sơn màu vàng nhạt như hồi xưa. Chiếc cổng trường vẫn y hệt như trong trí nhớ, nơi chị Ngọc và anh đợi ba đến đón mỗi buổi trưa, buổi chiều. Thực ra trường Bùi thị Xuân là trường nữ trung học, và là trường của chị Ngọc. Trường tiểu học của anh chỉ mượn tạm dãy lớp học phía bên phải cho bọn nhỏ. Đó là lý do tại sao hai chị em học chung trường, hay nói đúng hơn, trường của hai chị em tình cờ mà ở trong cùng khuôn viên. Những năm học đó anh luôn luôn một mình một trường vì các em được bố mẹ cho học trường tây với cái tên rất mộc mạc là Petit Lycée. Anh lặng lẽ nhìn những dãy hành lang vắng lặng. Những bức tường hẳn đã được sơn nhiều lớp, và mỗi lớp sơn là một lớp thời gian, một lớp thế hệ học trò. Thật sâu bên dưới đó, là lớp sơn thời gian của thế hệ anh, hằn in những dấu mực để lại từ những bàn tay nhỏ vụng dại. Mỗi lớp có một vị trí nhỏ nhoi của nó giữa hai điểm vô cực âm và vô cực dương của thời gian. Anh đang sử dụng một thứ "xe thời gian" đưa anh về những năm tháng ấu thơ. Anh nhẹ nhàng gỡ đi từng lớp thời gian, làm hiện ra dần dần những hình ảnh, những giọng nói, tiếng cười năm xưa. Năm tháng như một thứ lăng kính càng ngày càng dày, mà ký ức và kỷ niệm lọc qua đó càng ngày càng trở nên tinh khiết. Cô giáo lớp Hai là cô Linh hiền dịu, dường như không bao giờ biết nóng giận là gì, và không phạt đứa nào bao giờ. Có lẽ bọn tí hon ở cái tuổi học lớp Hai cũng chưa làm gì nên tội để bị phạt. Lần đó cô chỉ cười mà không la khi bắt gặp Huy đang ngửa cổ nhìn những hạt bụi li ti bay bay trong vạt nắng từ cửa sổ chiếu ngang đầu, và đưa tay khuấy cho những hạt bụi đó thêm quay cuồng trong giòng nắng. Cô Oanh dạy lớp Ba trái lại, vừa dữ vừa đáo để. Dường như cô không khen thưởng đứa nào bao giờ, nhưng phạt thì cô phạt tận tình. Huy không hề bị cô phạt bao giờ, nhưng Huy đã sớm nhận thức được cái tàn nhẫn của cô lần cô phạt thằng Tiến. Ở vào cái tuổi mà đa số bọn con trai còn coi con gái như một thứ gì lạ lắm cần tránh xa, thì thằng Tiến không hiểu bị cái gì nhập vào người mà lén dùng phấn viết nghuệch ngoạc trên bảng một câu thật rùng rợn: "Em Đoan ơi, anh yêu em nắm". Đoan là cháu gọi cô Oanh bằng cô, cũng là học trò của cô, lại ở cùng nhà với cô. Không biết có phải vì vậy mà nó luôn luôn có tên trong bảng danh dự hay không. Thằng Tiến cũng chẳng phải thiên thần; nó vừa du côn, vừa ngỗ nghịch, và có lần Huy đánh nhau với nó vì thói du côn của nó. Ngoài thói du côn, nó còn là thằng nói bậy vô địch. Huy nhớ mãi cái dáng nó ngồi xổm chơi bi, hai đầu gối bẹt ra, rạp sát người xuống đất để nhắm cho chính xác, hai tay đưa thẳng ra phía trước, mắt nheo lại, chuẩn bị bắn viên bi, miệng hát một câu thật tục tĩu: - Đời anh chỉ một l...........! Cái chữ cuối cùng nó kéo dài ra cho đến khi viên bi được bắn bung ra khỏi tay! Thật là... mất dạy không thể tả, nhưng những thằng nhóc dứng quanh nó đa số nhỏ hơn nó vài tuổi, chưa... đủ trình độ để cười vì câu tuyên bố bất hủ đó. Hiển nhiên là câu khẳng định rất trần tục về cái nhân sinh quan của nó chẳng có liên quan gì đến ván bi cả. Nó còn có tật nói ngọng và chính vì tật ngọng chuyển sang cả chữ viết, "anh yêu em nắm", nên nội vụ mới đổ bể. Khi cô Oanh bước vào lớp học, nhìn thấy giòng chữ đó, cô lập tức trừng trừng nhìn về phía cái thằng bắc kỳ nói ngọng duy nhất trong lớp là Tiến. Cả lớp cũng đổ dồn mắt về phía nó. Cô Oanh mang vở của thằng Tiến ra đối chiếu với tuồng chữ nghuệch ngoạc trên bảng và xác nhận nó là thủ phạm. Thế là màn hành quyết diễn ra. Đao phủ mà cô Oanh lựa chọn chính là con Đoan, cháu cô, đối tượng tình yêu của thằng Tiến. Cô bắt thằng Tiến nằm dài ra cái bục gỗ cô vẫn đứng trên đó để giảng bài, đưa cái thước dài cho con Đoan quất vào mông thằng Tiến mười roi. Cô Oanh đứng nhìn con Đoan quất thằng Tiến, miệng nói: - Mới nứt mắt ra mà đã ăn nói bậy bạ. Thằng Tiến có lẽ là con nhà nghèo, theo như sự quan sát của Huy về lối ăn mặc không lành lặn của nó, hẳn đã được cô Oanh dạy cho một cách rất tường tận bài học về sự khác biệt giai cấp giữa nó và con Đoan, cháu cô. Cô đã vạch cho nó thấy cái lằn ranh thật rõ rệt giữa giai cấp bần cùng của nó và giai cấp thượng lưu của cô. Sau này khi lớn lên và hiểu thế nào là cộng sản, là giai cấp, hình ảnh thằng Tiến, cô Oanh, con Đoan luôn luôn thấp thoáng trong trí Huy. Không biết rồi thằng Tiến có theo cộng sản ? Và nếu nó theo cộng sản trở về gặp lại cô Oanh, không biết nó có còn thù cô ? Hay cũng rất có thể nó là một đứa hời hợt, phổi bò không hề để tâm chuyện đọ Một lần Huy và thằng Tiến đánh nhau. Huy đang chạy bị nó ngáng chân té nhào rồi nó còn đứng chống nạnh hất mặt một cách khiêu khích, ra cái điều "tao làm mày té đó, coi mày dám làm gì tao cho biết!" Huy đứng lên phủi quần, xừng xộ: - Mày muốn gây sự hả mày? Nó nói giọng du côn: - Ờ đã sao chưa ? Huy vừa tức vừa hồi hộp, tim đập thình thịch, nhưng tự ái không cho phép bỏ qua, nói: - Mày muốn đánh nhau hả mày ? Nó ưỡn ngực tiến lại. Huy ước lượng tình thế thật nhanh và nhận thấy thằng quỉ này tuy hơn Huy vài tuổi nhưng coi bộ ốm nhách không đáng sợ, liền túm áo nó vật nó xuống đất. Ngay lập tức Huy cảm thấy cái gầy guộc yếu đuối của nó, và dư sức đè được nó nằm dưới. Dùng cánh tay chặn cổ nó, Huy hỏi: - Mày chịu thua chưa ? Nó càng vùng Huy càng đè mạnh, cuối cùng nó đành nói: - Rồi! Buông tao ra! Huy thận trọng thả nó ra, đứng lên gườm gườm, đề phòng nó đánh lén, nhưng nó chỉ phủi quần áo lẩm bẩm một câu gì đó rồi bỏ đi. Sau lần đó, nó thỉnh thoảng lại hỏi mượn bài vở của Huy như không có chuyện gì xảy ra, và Huy cũng không thấy ghét nó nữa, mà chỉ thấy thương hại. Nghĩ cũng buồn cười cho nó. Đã ngọng còn viết bậy để bị lộ tẩy, đã yếu còn gây sự đánh lộn. Tuổi học trò lớn lên, con trai thường không tránh khỏi những vụ đánh lộn như thế. Lan, em gái Huy có lần chứng kiến Huy đánh nhau với một thằng bắt nạt các em mình. Về nhà Lan kể lại cho mọi người nghe rồi cười hí hí ra vẻ thích thú lắm. Dường như con gái có một cái nhìn rất bình thản đến kỳ lạ về việc bọn con trai đánh lộn. Đối với con gái, đó là một điều đương nhiên phải có của bọn con trai, và có vẻ khôi hài nữa, nhưng có biết đâu mỗi lần bất đắc dĩ phải đánh nhau như vậy, Huy hồi hộp lắm chứ có phải trò đùa đâu. Những năm tiểu học của Huy, hình như cứ cách một năm lại có thày giáo hiền, một năm lại có thày giáo không hiền. Sang đến năm lớp Bốn, cô giáo của Huy là cô Linh, vừa đẹp vừa hát hay. Không hiểu cái gì đã khiến Huy nghĩ là cô Linh đẹp, nhưng ấn tượng về cô lúc đó và về sau luôn luôn là như vậy. Ông Đức dạy lớp Năm, tức là lớp cuối của bậc tiểu học, thì "mặt mũi nham hiểm như một thằng cộng sản", như có lần Huy thoáng nghe ba nói với mẹ và ba không biết là Huy đứng gần đó nghe được câu nói của ba về ông thày mình. Huy không biết mặt mũi "thằng cộng sản" như thế nào, nhưng cũng có nhận xét của riêng mình về ông thầy này. Ông ta, miệng luôn mím chặt, nói toàn những câu đạo đức, nhưng mắt thì hấp háy con bé Trang, trưởng lớp xinh xinh, học giỏi. Con bé này lớn hơn hầu hết các bạn cùng lớp vài tuổi, nghĩa là khi ấy nó khoảng mười ba, cái tuổi trổ mã của con gái, cao nghều, ra dáng thiếu nữ, trong lúc lũ con trai còn ngây ngô, lem luốc. Nhìn những dãy hành lang vắng lặng, anh tự hỏi những đứa bạn ấu thơ bây giờ ở đâu. Thằng Kiên "ghẻ", thằng Thạch "đùn", con Đoan, con Thi, con Bích Vân, chúng mày bây giờ ở đâu ? Bây giờ một lũ già gặp lại nhau "mày mày, tao tao" chắc lạ lắm. Cũng chiếc taxi thuê bao đó đưa hai bố con đi đến đồi Mộng Mơ, một khu giải trí mới. Khung cảnh thiên nhiên tươi mát chen lẫn những kiến trúc nhân tạo ngoạn mục, những vườn hoa, những suối nước, những nhà sàn mái nhọn kiểu Thượng, và cả một đoạn Vạn Lý Trường Thành thu nhỏ. Đồi được chia ra nhiều khu, mỗi khu được đặt tên của một thi sĩ hay một cái tên thơ mộng nào đó. Biết Nhóc tì cũng yêu thơ và biết nhiều về thơ như anh, anh chọn cái vườn mang bảng Hàn Mặc Tử để chụp hình khoe em, và yên tâm là em sẽ không hỏi "Hàn Mặc Tử là cái gì hở anh ?" Nhìn những cảnh đẹp kia, anh không thể tìm ra điều gì đáng chê, nhưng đó là cái đẹp mà anh nhận biết bằng trí óc, mà không cảm thấy bằng tâm hồn. Rời Đồi Mông Mơ, xe đưa hai bố con đến Thác Cam Ly. Anh và Thiên leo lên lưng hai con ngựa ốm o, chụp qua loa vài cái hình, ghé vào mấy cái quán bán đồ lưu niệm rồi ra về, giã từ con thác nhỏ và cái mùi nước cống rất nặng đó. Tổng cộng thời gian ở thác Cam Ly chỉ chừng hai mươi phút. Anh yêu cầu ông tài xế taxi đưa đến Dinh Bảo Đại, xưa kia là nơi nghỉ mát của vị vua cuối cùng của Việt Nam. Bầu không gian bên trong ngôi dinh thự đem lại cho anh một cảm giác vừa an bình vừa ngậm ngùi. Khách sảnh, văn phòng của vua Bảo Đại, phòng đọc sách của Nam Phương Hoàng Hậu, phòng họp mặt buổi tối của gia đình, phòng của các công chúa, phòng của hoàng tử Bảo Long, lầu thưởng nguyệt, từng phòng, từng phòng, dư âm của một thời vương giả như còn vang vọng đâu đây. Năm xưa, có lẽ cũng một buổi chiều tĩnh mịch như chiều nay, bầu không gian đã được rót đầy bởi những cung nhạc thánh thót từ chiếc dương cầm cổ kính kia, hay được đong đầy bằng những tiếng cười trong trẻo, vô tư của bầy trẻ vương giả. Tuổi ấu thơ luôn luôn nhiệm mầu dù vây bọc bởi vàng bạc, nhung lụa, hay ấp ủ trong mái tranh nghèo đồng quê. Cũng qua khung cửa kính viền màn trắng mỏng này, những trú nhân hoàng gia khi xưa đã nhìn xuống vườn hoa, lối sỏi dưới kia và hẳn cũng nghe hồn lắng xuống như người khách tìm về cố hương này. Hồn người xưa như còn phảng phất đâu đây bên những di vật cũ kỹ, những bức ảnh xưa màu xám u buồn. Những con người vương giả đó hẳn đã trải qua bầu không khí ảm đạm của buổi hoàng hôn một triều đại, niềm xôn xao của buổi giao thời, trạng huống bất an của vận nước đổi thay. Cũng là con người như hàng triệu con người khác, họ cũng không thoát khỏi sự chi phối của cái lẽ vô thường. Dinh Bảo Đại là nơi cuối cùng anh muốn đi thăm trong những ngày ở Đà Lạt. Anh yêu cầu người tài xế taxi đưa hai bố con đi về trung tâm thành phố rồi anh sẽ trả tiền cho ông ta đi về, mặc dù còn thừa thì giờ. Khách sạn cũng nằm gần đó và hai bố con có thể đi bộ được. Anh nói với Thiên: - Khi đến khu Hoà Bình, bố sẽ chỉ cho con cửa tiệm cũ của bà nội. Hôm trước, Thiên hỏi anh: - Bố nói hồi trước nhà bố nghèo hơn nhà mẹ, vậy bà nội có phải buôn bán như thế này không ? Vừa nói nó vừa đưa hai cánh tay ngang vai như người cử tạ. Khi thấy anh tỏ ra chưa hiểu, nó giải thích: - Bà nội có phải bán hàng từ hai cái rổ như thế này không ? Nó làm lại động tác "cử tạ" mà bây giờ anh đã hiểu nó muốn tả người gánh hai thúng bằng đòn gánh. Anh cười vì cách diễn tả của nó: - À, bố hiểu rồi. Không con ạ, hồi đó ông nội làm công chức như bao nhiêu công chức khác, tuy không giàu, nhưng cũng không túng thiếu. Khi bố học lớp Ba, bà nội nắm lấy cơ hội làm đại lý buôn gạo sỉ, lúc đó còn ít cạnh tranh. Việc làm thương mại là ý thích của bà nội, chứ nếu không có cửa tiệm, nhà mình vẫn đủ sống. Nhưng nếu năm 1975 nhà mình không "đi" được, chắc mình cũng khó thoát khỏi cảnh bần cùng như bao nhiêu gia đình khác, và chắc cũng phải buôn gánh bán bưng cực nhọc mà thôi. Chỉ là một thắc mắc giản dị của nó, nhưng anh chợt nhận ra là từ trước đến nay, anh đã thiếu sót trong việc nói cho nobiết những điều thông thường về nguồn gốc gia đình mình mà ai ai khi đến một tuổi nào đó cũng muốn biết. Anh nói tiếp: - Con đã biết khá nhiều về gia đình bố, nhưng hình như con biết rất ít về gia đình mẹ. Hồi trước, ông ngoại có chức vụ cao trong chính phủ, nên gia đình mẹ rất sung túc. Mẹ và các bác đều được ông bà ngoại cho học trường tây, mẹ đi ngoại quốc rất sớm. Ông ngoại rất thanh liêm, không bao giờ nhận tiền đút lót, dù có rất nhiều dịp. Những người có chức vị thua ông ngoại rất nhiều cũng có thể làm giàu dễ dàng vì tham nhũng. Có một sự việc khá đặc biệt trong sự nghiệp của ông ngoại là lần ông ngoại được phong quân hàm đại tá hải quân danh dự, ngang hàng với chức tư lệnh hải quân bấy giờ. Ông ngoại là dân sự, nên ông ngoại cần có đủ cấp bậc và danh nghĩa để có toàn quyền điều khiển một dự án đặc biệt khai toả thương cảng Sài Gòn. Và đó là mục đích của việc ông ngoại được phong quân hàm đại tá. Khi về lại Canada, bố sẽ cho con xem những hình ảnh xưa kia ông ngoại đi kinh lý cùng tổng thống và bộ trưởng đương thời, và cả những hình chụp ông ngoại duyệt binh với tư cách chỉ huy trưởng danh dự hải quân. Đến khu Hoà Bình, xe thả Thiên và anh xuống một hè phố. Trả tiền cho ông tài xế xong, anh đưa mắt tìm kiếm và nhận ra cửa tiệm cũ của nhà nằm giữa khu phố đối diện chợ Hoà Bình. Cái tên Yên Sơn cũ, dĩ nhiên chẳng còn. Hồi đó cửa tiệm là nơi cả gia đình anh lui tới ban ngày. Mấy anh chị em đi học, ba đi làm, buổi trưa ghé về đó nghỉ ngơi, ăn uống trên lầu. Ban đêm, khi tiệm đã đóng cửa, thường thường, cả nhà quay về nhà ở khu cư xá trường Trần Hưng Đạo. Nhưng mỗi khi mấy anh em được ba me cho phép ngủ lại tiệm, đứa nào cũng khoái vì được thức khuya và tha hồ tung hoành trên lầu trên! Anh chỉ cho Thiên cái ban công tầng trên của tiệm, kể cho nó nghe kỷ niệm những đêm trời lạnh, khi các bác của nó hay buộc giây vào một cái ca bự thả xuống hè phố mua bánh mì nóng ròn của những thằng bé bán bánh mì dạo. Làm như vậy để không phải chạy xuống tầng dưới mở cửa tiệm để mua bánh. Những cái bánh mì nóng hổi vì được ủ kỹ trong cái bị dày, vác oằn vai của thằng bé bán dạo, khi lấy ra, toả mùi thơm phức. Mùi bánh mì năm xưa như đã ăn sâu vào trí nhớ riêng của khứu giác. Sau này mỗi khi đi ngang lò bánh mì hay tiệm bánh ở bất cứ đâu, mùi bánh mì mới ra lò bao giờ cũng đưa anh về những kỷ niệm năm xưa. Khứu giác cũng tương tự như thính giác, có trí nhớ riêng của nó. Một bài nhạc nào đó có thể trở nên gắn liền với một quãng đời đã qua, để rồi mỗi khi tình cờ nghe lại, một cảm giác bồi hồi của riêng một thời quá khứ lại trở về. Đà Lạt bây giờ đông vui tấp nập, nhưng cái nét thanh lịch thường được gán cho Đà Lạt năm xưa, không còn nữa. Thay vào đó là một đời sống vội vàng, bươn bả , đem lại sự giàu có cho một lớp người mới, mà tiền bạc của họ chỉ làm nổi bật thêm sự thiếu thốn văn hoá. Hai bố con đi bên nhau, hiển nhiên là Thiên tò mò và đang làm quen dần với khung cảnh và sinh hoạt xung quanh nó, nhưng chính anh cũng cảm thấy mình đang bước những bước lạc lõng. Từ những món ăn uống, anh cũng không tìm được một sự quen thuộc nào. Các món ăn dường như chỉ mang cái tên quen thuộc, nhưng mùi vị thật lạ lùng. Bước vào một tiệm bánh lớn, với đủ mọi thứ bánh trông rất ngon, nhưng nếm thử ba bốn thứ khác nhau, anh không nhận ra một mùi vị quen thuộc nào. Em biết anh là là một người không cầu kỳ mà, phải không Nhóc tì ? Cái bánh nhân tôm thịt, bột dính dính và trong, mà mẹ anh gọi là bánh quai vạc, anh mua về khách sạn, cắn vào khô lăn khô lóc, em tưởng tượng chán thế nào. Cái bánh pâté chaud trông đẹp mắt lắm, cắn vào có mùi lạ lạ. Còn vài món giản dị khác nữa, mà món nào nếm thử anh cũng thấy không quen. Các tiệm ăn mà anh ghé vào thì tiệm nào cũng làng nhàng, không thể bằng những tiệm Việt Nam bên Canada. Những món ăn ở nhà hàng lớn nhất, anh quên mất tên, nằm trên chỗ đỉnh cao, nơi du khách đến mua vé đi xe cable băng ngang núi ngắm cảnh Đà Lạt, các món ăn không có gì đặc biệt, nhưng dầu sao cũng hơn những nơi khác ở chỗ thiếu cái mùi tanh tanh đến từ mặt bàn, và ngay cả từ trong nhà bếp. Khi mà các món ăn đặc biệt về cá, như lẩu cá, gỏi cá chẳng hạn, được kêu, thì khứu giác của anh lại càng bị tấn công dữ dội bởi cái mùi cá . Thiên nhà ta thì lúc nào cũng lịch sự có thừa lúc có bạn bố ở đó, món cá nào dọn ra cũng nói ô kê, nhưng anh biết cu cậu cố gắng hết sức để khỏi làm mất lòng bạn của bố . Nó là thằng không ăn thịt, chỉ ăn cá, nhưng không thể chịu đựng nổi các món ăn có cá vớt ra từ cái nồi nước dùng đun sôi, bốc mùi tanh thay vì mùi thơm, quấn chung với những thứ rau bờm xờm trong cái bánh tráng, lóng nga lóng ngóng, chấm vào cái thứ nước chấm màu tím tím, đục đục, có cái mùi mà nó không biết phải so sánh với mùi gì . Bố nó dĩ nhiên đã quen thuộc lắm với những món mắm nêm, mắm tôm, chứ nó thì chắc đang trải qua một cú khủng hoảng ... văn hoá! Trong một tuần lễ ở Đà Lạt, chỉ có hai lần anh ăn ngon, đó là lần ăn phở vào buổi sáng hôm sắp đi Sài Gòn, và một lần ăn bánh giò của bà cụ người bắc trên đường Phan Đình Phùng . Những cái bánh giò bên Canada chưa bao giờ được như vậy . Còn một tiệm bán bánh bao ngon nổi tiếng cũng nằm trên đường Phan Đình Phùng thì anh đến hơi trễ một chút, người ta đã bán hết . Chỉ là một khía cạnh của chuyến đi, dĩ nhiên về thăm quê hương chẳng phải để ăn. Trở về khách sạn, anh bắt đầu thấy khó chịu, nôn nao, triệu chứng giống như Thiên lúc ở Nha Trang . Chỉ cần nghĩ đến bất cứ món ăn hay thức uống gì cũng đủ để anh cảm thấy những gì còn lại trong dạ dầy muốn dâng lên cổ . Chỉ mới ngày thứ hai ở đây mà đã thế này rồi thì còn làm ăn gì . Anh mang vài thứ thuốc mang theo ra uống rồi nhấc phôn gọi cho Cát, anh chàng bác sĩ xưa nay vẫn nổi tiếng đẹp trai như Mạc Đĩnh Chi . Anh chàng chắc sẽ trách mình sao không gọi ngay khi đến. << Lùi - Tiếp theo lon to THẾ GIỚI SEX

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét