Thứ Tư, 19 tháng 12, 2012

Xóm Đạo Houston

kho truyen sex Xóm Đạo Houston Tác giả: Nguyễn Phục Hưng Căn phố của ông bà Tuyên nằm ngay cuối dãy, nhìn ra con kinh thoát nước. Xa xa là những căn nhà chọc trời của Houston. Tháng Sáu, Houston mưa nhiều như Sàigòn. Mưa rào, ào xuống rất nhanh và ngưng lại cũng rất nhanh, y hệt mưa Sàigòn. Nước con kinh dâng cao, chảy xiết như một dòng sông nhỏ ngay sát căn chung cư của ông Tuyên. Năm 1975, dân tị nạn Việt Nam được phân tán trên khắp nước Mỹ, nhưng chỉ vài năm sau đó, nhiều người dần dần rời bỏ các nơi lạnh lẽo, về lập nghiệp tại hai tiểu bang California và Texas. Có lẽ vì khí hậu ấm áp rất giống Sàigòn, nên Houston trở thành một trong những thành phố có đông người Việt Nam cư ngụ. Ông Tuyên chế thêm trà vào tách cho bạn, từ từ tiếp câu chuyện: - Bác biết không, chúng tôi nhờ ơn trên mới có được căn chung cư này. Đời sống dân tình ở đây thuần hậu lắm, giống như xóm đạo mình ở Biên Hòa ngày xưa đó. Vừa lúc đó bà Tuyên đi ra, chào: - Bác Chương ngồi chơi với Bố cháu, tôi đi ra nhà nguyện. Ông Chương hơi ngạc nhiên: - Nhà nguyện? Hiểu được ý khách, ông Tuyên từ tốn trả lời: - Bác ngạc nhiên là phải. Để tôi kể chuyện cho bác nghe. Nhấp một ngụm trà, ông Tuyên nói tiếp: - Lúc mới vào cổng khu chung cư này, Bác có thấy gì không? - Làng Joseph phải không? Tôi cũng hơi thắc mắc mà chưa có dịp hỏi. - Đúng đấy bác ạ, khu chung cư này là một làng đạo Việt Nam. Ngay giữa Houston mà có một làng đạo ViệtNam, thế mới đặc biệt chứ. Ông Tuyên trả lời, rồi tiếp: - Chuyện thế này, khoảng năm 1985, 1986 gì đó, tôi cũng không nhớ rõ lắm, lúc đó kinh tế Houston bị khủng hoảng vì giá dầu thô giảm rất thấp. Từ lâu, Houston vẫn có biệt danh là Thủ Đô Dầu Hỏa, vì hầu hết các hãng dầu hỏa lớn trên thế giới đều có trụ sở ở đây. Chính vì vậy mà khi giá dầu xuống quá thấp, thì kinh tế Houston suy sụp nặng nề. Trước đó, nhờ kỹ nghệ dầu hỏa thịnh vượng, bà con mình làm ăn khá, mua nhà, mua cửa đẹp đẽ. Khi dầu hỏa xuống giá thì dân Houston rất khốn đốn, nhiều người bị thất nghiệp nên không đủ tiền trả nhà băng. - Tôi nghe nói hồi đó bà con mình bị phá sản, bỏ nhà cho không các hãng nợ? - Đúng vậy, Ai may mắn thì có người vào ở nhà mình, tiếp tục trả món nợ cho nhà băng thì khỏi bị phá sản hay bị điểm xấu vì chạy nợ. Không phải chỉ có tư nhân mới bỏ nhà chạy nợ đâu, những chủ của các khu chung cư cũng vậy. Không có người thuê, chủ nhân các khu chung cư cũng bỏ hoang luôn và nhà băng tịch thu mang ra bán đấu giá. Ông Tuyên chậm rãi, tiếp: - Trong dịp này, một vị linh mục, cha Chỉnh, đã đứng ra gây quỹ mua luôn một khu chung cư, rồi bán lại cho đồng bào từng đơn vị gia cư. Tôi không biết chi tiết việc này ra sao vì tôi đến sau, nhưng chỉ nghe được là Cha đã mua được với giá rẻ lắm. Lúc đó các căn chung cư dơ bẩn và xập xệ lắm vì đã bỏ trống một thời gian dài không tu bổ. Người mua phải tự sửa chữa lấy, nhưng cũng còn quá rẻ so với giá bình thường. - Không biết giá cả như thế nào bác nhỉ? - Tôi nhớ lúc đầu, căn một phòng ngủ chỉ chừng năm ngàn đô, căn hai phòng ngủ chừng tám hay chín ngàn gì đó, tùy theo tình trạng, chỉ cần sửa thêm một vài ngàn nữa là mình có một căn chung cư rất khang trang. Cũng nhờ cơ hội này mà nhiều người ở thuê, ở mướn, được có dịp làm chủ một căn nhà. Sau đó dưới sự sắp đặt của quí cha, chung cư được tổ chức lại thành Làng Joseph. Nhắp thêm ngụm trà, ông tiếp: - Quí cha giữ lại vài căn, cho người sửa chữa, làm Nhà Nguyện chung cho cả làng, từ đó có Nhà Nguyện. Mỗi ngày cứ khoảng 5 giờ chiều, có tiếng chuông nhắc bà con giờ cầu nguyện, thật là dễ thương và cảm động. Mỗi lần nghe chuông, tôi lại nhớ những ngày còn ở xóm đạo Biên Hòa. Tôi thích ở đây là vì thế. - Ồ, thú vị quá nhỉ ! Thế ở đây có nhà thờ không, Bác? - Ngay trong Làng thì không có nhà thờ, chỉ có nhà Nguyện. Nhưng nhà thờ Mỹ thì cũng không xa đây. Hồi nãy mình có đi xe ngang qua đó, cách đây chừng năm phút đi bộ. Chủ Nhật chúng tôi vẫn thường đi bộ ra nhà thờ Mỹ. Nói là nhà thờ Mỹ nhưng các cha người Việt mình có giờ thánh lễ cho giáo dân Việt Nam. Mai tôi mời bác cùng đi lễ với chúng tôi. Nhà Nguyện là nơi chúng tôi tĩnh tâm hằng ngày, lúc nào cửa cũng mở cho bà con trong làng. Các cụ lớn tuổi hay ra đây cầu nguyện lắm, vì gần, không cần phải nhờ con cháu đưa đón. - Đời sống như vậy thật là an bình bác nhỉ? - Để tôi kể bác nghe. Tuy là tiện như vậy nhưng nhiều người cũng không thích ở đây lắm vì đời sống ở đây rất bình dân và có lẽ “quá” Việt Nam. Tôi thì quen rồi, đâm ra thích. chắc tại mình già rồi. Chứ ai mà quá quen với đời sống Mỹ có lẽ thấy khó chịu. Căn phòng của chúng tôi ở cuối làng nên rất yên tịnh. Những căn ở giữa thì hay bị ồn ào hơn. - Tôi có để ý lúc mới đến. Bà con mình ngồi ca hát trước cửa nhà vui ghê. - Đúng rồi bác. Ở đây nhiều lúc giống hệt xóm lao động bên Sài-Gòn mình. Nhiều khi mình nghe một lúc hai, ba đài radio, cộng thêm TV Mỹ và nhạc CD hay có người còn hát Karaoke nữa. Cũng có lúc, bà con mình mang máy ra ngoài cửa để dễ bắt đài, hoặc là không đóng cửa, thì mình cũng nghe được luôn. Ông Chương góp ý: - Bác làm tôi nhớ hồi ở Sàigòn, các đài phát thanh thường khuyến cáo thính giả “vặn âm thanh vừa đủ nghe, kẻo làm phiền lòng hàng xóm.” - Bác nói đúng. Hồi mới đến ở, tôi cũng hơi khó chịu. Sống trong chung cư Mỹ mình quen lề lối của họ, tôn trọng đời sống riêng tư của người khác tối đa. Thú thật với bác, hồi ở chung cư Mỹ, tôi không biết hàng xóm mình là ai, thậm chí chả biết họ là đàn ông hay đàn bà nữa, vì có mấy khi gặp gỡ chào hỏi gì đâu. Sáng đi làm, tối về đóng cửa, rút vào đời sống gia đình, không ai quan tâm đến ai, không ai làm phiền rộn gì ai. Sống như vậy buồn lắm. Trong chung cư này thì khác, bác ạ. Hình như ai cũng biết ai, không muốn biết cũng tự nhiên biết. Chào hỏi thân thiết như bà con. - Nếu vậy thì thật là tốt cho người lớn tuổi, phải không bác? Ông Tuyên bùi ngùi: - Vâng, đúng vậy. Tôi nhớ hồi mới qua Mỹ, mẹ tôi đã già, ở trong chung cư Mỹ, bà như một người câm, vì không có ai nói chuyện cho khuây khỏa. Tụi tôi đi làm tối ngày, các cháu thì đi học. Bà Nội các cháu vì nhớ nhà, nhớ Sàigòn, cứ thui thủi một mình thật tội nghiệp. Có lẽ vì vậy mà Mẹ tôi mất sớm, chỉ mới ở Mỹ có ba năm thôi bác. Có lẽ Mẹ tôi mất sớm như vậy vì buồn bác ạ. Tôi nghĩ nếu hồi đó, có một nơi như vậy thì có lẽ Mẹ tôi vui lắm và còn sống thêm. Ông Chương góp chuyện: - Có lẽ cộng đồng Việt Nam mình cần có nhiều chung cư như Làng này, bác ạ. Tôi biết có nhiều cụ già sống như câm, như điếc trong các chung cư Mỹ. Con cháu phải lo đi làm, đi học, không có thì giờ săn sóc thường xuyên. Các cụ cần một môi trường sống tự nhiên như ở Sàigòn, như vậy các cụ sống vui thì sẽ mạnh khỏe, khỏi tâm bịnh. - Tôi nghĩ cha Chỉnh đã tạo ra một hình thức làng Việt Nam rất thành công, rất hữu ích. Đồng ý là mình không sống quá xa cách với phong tục Mỹ vì dù sao mình cũng đang sống trên đất Mỹ. Nhập gia tùy tục, tôn trọng đời sống riêng tư cũng có nhiều cái hay, nhưng người già Việt Nam rất cần một chỗ như Làng này, bác ạ. Nhắp một ngụm trà, ông Tuyên tiếp: - Ở Cali và chắc là ngay ở đây cũng có những hội cao niên để các cụ giải trí, nhưng chưa được thành công và tự nhiên như đời sống ở đây, phải không? Tôi thấy ở Làng này mọi người sống gần gũi dễ thương như bà con họ hàng. Qui luật của Làng cũng khá nghiêm nghặt. Chúng tôi có thuê người canh gác để đề phòng trộm vặt. Tối đến, làng đóng bớt một cổng, mọi người và xe cộ chỉ qua một cổng, có người gác. Kẻ lạ mặt, do đó cũng sẽ e dè, không dám lộng hành. - Thế ở đây ai cũng theo đạo Thiên Chúa giáo hết sao? - Không phải đâu, chỉ đa số thôi bác ạ. Ai muốn vào mua cũng được, không phân biệt tôn giáo hay mầu da. Tuy nhiên, theo khuynh hướng tự nhiên, các bà con người Việt, Công Giáo chiếm có lẽ hơn 90%, chắc vì “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” như ông bà ta vẫn nói. Đưa tay chỉ bên phải của mình, ông Tuyên nói tiếp: - Bà Dậu ở căn kế nhà tôi là người đạo Phật đấy bác. Gia đình con cháu của bà ở Tulsa, tiểu bang Oklahoma, nhưng cứ đến mùa Đông thì bà ấy lại về đây tránh lạnh. Bà về đây ở một mình nhưng có nhiều bạn già nên vui lắm. Các cụ cũng trên dưới bảy mươi, hay tụ tập lại nhà bà Dậu để nói chuyện, đánh tam cúc, hay nấu nướng món này món kia rồi mời các cụ khác đến ăn. - Thế bác có được mời qua ăn không? - Có chứ bác, bà Dậu cho biết là bà ấy phải tìm việc mà làm cho bận tay bận chân, chứ ở không thì sanh bệnh. Riết rồi có người đặt bà làm bánh trái, chả giò ... khi có tiệc tùng. - Vậy thì lại có thêm tiền tiêu, bác nhỉ? - Vâng, nhưng bao nhiêu tiền kiếm được, bà ấy cho hết vào chùa hay gởi về tặng người già, túng thiếu tại Việt Nam bác ạ. Chúng tôi cũng hay đặt chả giò của bà ấy vì vừa ngon lại vừa sạch sẽ. Nhờ bận rộn, lại kiếm được tiền giúp người khác, bà Dậu khỏe hẳn ra bác ạ. - Thế mùa Hè nhà bỏ trống sao bác? - Không đâu bác, mùa Hè, con cháu của bà ấy từ các nơi về đây chơi, rồi đi biển Galveston tắm. Tối tối, các cô cậu ấy lại đưa nhau đi vòng vòng các khu chợ Việt Nam uống Cafe. Các cô cậu ấy cũng hay ghé vào đây chuyện trò với chúng tôi. - Mà sao tôi thấy nhà đóng cửa hết vậy, bây giờ không có ai ở sao ? Thấp giọng, Ông Tuyên buồn buồn đáp: - Mới tuần trước, bà Dậu phải mổ tim và mất rồi bác ạ. Cả xóm đều thương tiếc. Hai ông bạn đang ngậm ngùi thì có tiếng từ dưới sân vọng lên: - Bác Tuyên ơi, xin lỗi bác, có bác gái ở nhà không? - Bà nhà tôi đi xuống nhà nguyện rồi. Có chuyện gì không cô Ba? - Con muốn hỏi bác gái có muốn đi chợ Hồng Kông 4 ngày mai không, con chở đi. - Cám ơn cô, tôi sẽ nhắn lại với nhà tôi. - Dạ, cám ơn bác. Quay lại nhìn ông Chương, ông Tuyên tiếp: - Đời sống như vậy đó bác, y hệt xóm mình ngày xưa ở Biên Hòa. Mấy cô cậu trẻ ở đây lái xe ào ào. Tụi mình già rồi, chừng nào muốn đi đâu mình nhờ họ chở, chỉ cần trả họ chút tiền xăng nhớt cho vui và như vậy mình cũng đỡ ngại khi nhờ họ. - Tiện quá hả bác? - Vâng, tiện lắm bác, có nhiều cô cậu đi làm ca đêm, nên ban ngày họ rảnh, nhất là cuối tuần. Thay vì đi xe Bus, phải đổi hai, ba lần, hoặc thuê Taxi thì ngôn ngữ bất đồng, lại rất đắt, các người già trong này nhờ họ. Cô Ba này có chiếc xe Lexus mới toanh đó bác. Chừng nào cần đi bác sĩ, nha sĩ, chúng tôi cũng nhờ cô ấy chở đi giúp. Này nhé, lưỡng lợi cả đôi bên, các cô cậu ấy chỉ việc chở mình đến đó rồi họ đi công việc của họ, đến lúc mình xong thì họ đến đón mình về. - Vậy thì khỏe thật bác ạ. - Vâng, có bữa các bà trong xóm muốn đi mua sắm thì cô Ba cũng đi luôn, mỗi bà trả cho cô ấy 15 đồng, đi suốt cả buổi, chừng nào các bà mua bán xong, cô ấy lại chở về. Còn nếu cô ấy bận việc không chở được, thì có cậu Hùng chở đi, cậu này thả các bà xong là vào rạp cinê coi phim. Đôi bên cùng vui vẻ, mình được ngồi nhà, khỏi theo các bà la cà vào chợ . - Thế các cô các cậu ấy có chở giùm đi lo giấy tờ gì không bác? - Có đấy ạ, khi cần lo việc như thi quốc tịch, hay giấy tờ an sinh xã hội, các cô cậu ấy cũng đưa đi, và làm thông dịch luôn cho các cụ, và chi phí cũng rất là khiêm nhường, đâu như chỉ khoảng 50 dollars thôi. - Vậy thì tốt quá hả bác. Các cụ vừa thoải mái, vừa không phải phiền hà đến con cháu, vì ở xứ này con cháu đi làm mà cứ phải xin nghỉ để đi lo việc cho cha mẹ, ông bà cũng phiền, nhất là dạo này nhiều công ty đang sa thải nhân viên. - Đúng thế, bác ạ, những tiện nghi này rất là thực dụng. Các cụ đôi khi cũng không muốn tùy thuộc quá nhiều vào con cháu. Nhờ các cô cậu hàng xóm trẻ này chở đi đây đi đó, cái tình thân vẫn có, nhưng ơn nghĩa giảm đi nhiều, vì dù sao các cụ cũng trả thù lao cân xứng. - Thế nếu khi nào các cụ bà chỉ cần vài thứ lặt vặt, cũng phải nhờ người chở đi chợ xa sao bác? - Không bác ạ. Ngay trong làng này cũng có một tiệm tạp hóa nhỏ, nhưng bán đủ thứ cần dùng hàng ngày cho dân trong làng. Tiệm nằm ngay giữa làng nên rất tiện cho mọi người. Gạo, nước mắm, rau cải, mì gói, thuốc đánh răng, dầu cù là ... hầu như đủ cả. Ai cần mua nhiều mới phải đi xa, chứ nếu cần ít thì chỉ đến đấy. Để tôi dẫn bác đi bộ một vòng trong làng rồi mình ghé vào tiệm ấy cho bác coi. Rẽ qua một con đường nhỏ trong xóm, ông Tuyên giải thích với bạn: - Tôi thích đi bộ trong xóm bác ạ. Sáng đi vài vòng, tối ăn cơm xong lại đi tản bộ với nhà tôi, vừa tập thể dục lại vừa chào hỏi bà con lối xóm. Sáng mai bác sẽ thấy các Cụ tập Tai-Chi ngay bãi đậu xe, hay có người lại đi bộ theo con kinh này, vui lắm. Ông Tuyên đưa tay chỉ ra bờ nước, tiếp: - Lúc này người ta rào lại, không cho xuống bờ nữa, chứ ngày trước mình có thể xuống đi dọc theo hai bên bờ con kinh này đấy bác. Ông Chương tò mò: - Tại sao vậy bác? - Giản dị thôi, một phần vì sợ các cháu nhỏ ra chơi rồi nhỡ trợt chân té, một phần vì không muốn dân làng xuống đó trồng rau muống, bác ạ. - Ủa sao lạ vậy? Sao lại không cho trồng rau muống? Ông Tuyên vẫn từ tốn, tủm tỉm cười: - Bà con Việt Nam mình vẫn hay có sáng kiến lạ. Hồi đầu, bên rạch nước là bờ cỏ xanh. Thay vì cắt cỏ, bà con ta làm đất trồng rau cải, hành, ớt ... vừa khỏi cắt cỏ lại vừa có rau tươi để ăn. - Thế tại sao ai lại cấm trồng rau muống? - Bà con ta, thấy trồng rau muống trên khô mà đã tốt đến thế, nên lại thả luôn giống rau muống xuống nước. Rau muống gặp nước phát triển quá độ, bà con ta vừa ăn, vừa biếu cũng không kịp. Ngặt nỗi là rễ rau muống lan nhanh làm đầy hết kinh rãnh, thế là xóm khác bị lụt. Họ khiếu nại, nên thành phố phạt chung cư này, bắt rào lại và cấm trồng rau muống. Ông Tuyên đưa tay lên gãi đầu, rồi tiếp: - Tôi cũng không biết có phải vì vụ này hay là do từ đâu mà sau này những nơi trồng rau muống nước đều bị cấm ngặt. - Như vậy là hết rau muống để ăn hả bác? Ông Tuyên trấn an bạn: - Dân Bắc kỳ chúng mình mà không có rau muống làm sao sống nổi, Bác. Ngoài chợ vẫn có bán đấy chứ, nhưng rau muống bây giờ là loại rau trồng trên cạn, có nơi lại trồng cả trong nhà kính vào mùa lạnh, nên ta có rau ăn quanh năm. Cọng rau không được mềm như rau muống nước bác ạ. Bác đừng lo, tối này nhà tôi sẽ mời bác dùng cơm với rau muống luộc và cà pháo. Ông Chương cười lớn: - Xứ Mỹ này có nhiều cái rắc rối bất ngờ. Chắc họ cũng có lý do của họ. Thôi thì cứ nhập gia tùy tục, bác nhỉ? - Vâng, thì phải vậy. Mà này bác, bác còn thích đánh chén với tiết canh heo không? Ông Chương ngạc nhiên: - Ở đâu mà có món ăn quốc hồn quốc túy đó? Từ hồi qua đây tôi có thấy bao giờ đâu bác. Ông Tuyên cười, bí mật: - Món ngon quốc hồn quốc túy nào ở đây cũng có cả. Trong làng, thỉnh thoảng họ chung nhau lên mấy trại nuôi súc vật ở đây, mua nguyên con bò, con heo làm thịt tươi, rồi lấy huyết làm tiết canh. Tôi nghe nói bên làng Thái Xuân họ còn làm heo ngay tại trong làng nữa. Không biết có đúng không. - Làng Thái Xuân! Bác vừa nói có làng khác nữa à? - Vâng, tôi quên chưa nói với bác là sau khi làng Joseph này lập ra và thành công, thì có nhiều nhóm cũng bắt chước lập ra nhiều làng tương tự. Ngay bên kia đường có làng Đà Lạt. Làng Thái Xuân cách đây chừng năm phút lái xe. Nghe nói bên làng Thái Xuân có nhiều anh em H.O. lắm và tinh thần Việt Nam cũng không thua gì làng Joseph này bác ạ. Tuy nhiên hình như chỉ có làng Joseph này là có vẻ “xóm đạo” nhất. Không biết có phải vì do cha Chỉnh lập ra mà được như thế không nữa. Ông Chương lại thắc mắc: - Thế Làng có tổ chức quản trị gì đặc biệt không, bác? - Có chứ ạ. Ban quản trị làng do bà con bầu ra để lo việc chung của làng như bảo trì, đổ rác, điện nước ... Ngoài việc đó, ban quản trị còn lo các việc đặc biệt như hội hè, đình đám, quan hôn, tang tế... trong làng. Các ngày lễ lớn như Tết Nguyên Đán, Trung Thu, Giáng Sinh... ở đây vui lắm. Tết thì giống như ở Việt Nam ta, pháo nổ đón Xuân đêm giao thừa. Ông Chương ngắt lời bạn: - Đốt pháo ban đêm như vậy mà cảnh sát không làm khó dễ sao, Bác? Ông Tuyên từ tốn: - Mình xin được giấy phép của thành phố cho đốt pháo mới dám đốt, chứ bác. Cảnh sát còn đến giữ trật tự cho dân làng đốt pháo, vì Houston cấm đốt pháo, nếu không có giấy phép. Ông Chương gật gù: - Thế thì hay thật đấy, Bác. Mà bác này, nãy giờ mình bách bộ tôi thấy có vài người Mỹ. Họ cũng ở đây hả bác? - Vâng, đấy là con dâu, con rể, cháu ngoại, cháu nội ... của các cụ trong Làng. Nhiều cô cậu cũng nghe và nói được tiếng Việt mình đấy bác ạ. Tôi thấy họ cũng có vẻ thích đời sống ở đây lắm. Chỉ tay vào vài đứa bé đang ngồi chơi cuối dãy, ông Tuyên nói tiếp: - Bác thấy các cháu nhỏ kia không. Các cháu lai nửa Mỹ, nửa Việt mà đang nói tiếng Việt rành rẽ như vậy đó. - Ồ, các cháu dễ thương quá. Vừa lúc ấy, bà Tuyên ở nhà Nguyện đi về, đám trẻ bu lại chào hỏi. Một cô bé da trắng hồng nắm lấy áo bà, hỏi: - Hi Bà Ngoại, Can Jennifer play? Bà Tuyên cúi xuống, vuốt đầu đứa bé: - Chào bé Ann. Để bà coi nhé. Rồi bà nói vọng lên trên lầu với cô cháu ngoại: - Jennifer ơi, bé Ann rủ con chơi này. Cô cháu gái chạy xuống lầu, rồi nhanh nhẩu đáp: - Thank you, Grandma. Vừa nói cô bé vừa chạy theo chơi đùa với bạn. Ông Chương chưng hửng trước cảnh này. Bầy nhỏ và bà Tuyên nói mỗi người một thứ tiếng, mà ai cũng hiểu nhau. Sự thông đạt không cần ngôn ngữ. Nhìn vẻ mặt ngạc nhiên của bạn, ông Tuyên giải thích: - Ở đây, mấy đứa bé chơi với nhau thường lắm. Chúng đến chơi với cháu Jennifer hoài nên quen biết. Chúng theo Jennifer, gọi nhà tôi là “Bà Ngoại” Bà nhà tôi cũng thương chúng như thương Jennifer. Có gì cũng san sẻ với chúng. Bà nhà tôi nói tiếng Việt, chúng không nói rành, nhưng hiểu hết. Mà bà nhà tôi, dù không nói tiếng Mỹ với chúng nhưng lại cũng hiểu chúng nói gì. Đúng là sự truyền đạt không cần ngôn ngữ. Bác đồng ý không? Ông Chương gật đầu: - Đúng vậy, Tôi nghĩ sự đạt thông tư tưởng sâu xa chính là sự cảm nhận chứ không phải ngôn từ. Cảm nhận bằng tình thương là sự cảm nhận và cảm thông tuyệt diệu nhất. Dừng lại bên cây đu đủ đầy trái, ông Chuơng nói tiếp: - Tôi nghĩ rằng môi trường sống trong làng này cũng có ít nhiều ảnh hưởng tốt đẹp đến sự sống hòa đồng của dân làng. Chẳng biết bao giờ mình mới có cơ hội trở về sống lại nơi quê mình ở Biên Hòa, nhưng ở xứ Mỹ mà được sống hài hòa như nơi đây cũng là nhờ ơn trên nhiều lắm. Cây đu đủ này của ai bác nhỉ? - Của bà Dậu trồng đấy bác ạ, nhưng ai muốn dùng thì cứ việc tự nhiên, để tôi hái một quả chín chốc nữa mời bác dùng tráng miệng. Cầm quả đu đủ chín vàng trong tay, ông Tuyên ngậm ngùi: - Tiếc quá, bà Dậu đã qua đời. Dù sao mình cũng cảm ơn Bà đã trồng cây này để bà con có trái ngọt quê hương. Thôi ta vào dùng cơm bác ạ, chắc nhà tôi đã nấu xong rồi . kho truyen sex THẾ GIỚI SEX

Xóm Ảo: Còn Đó Một Mối Tình

kho truyen sex Xóm Ảo: Còn Đó Một Mối Tình Tác giả: Lê Du Miên Xóm ảo như một xóm ma và tất cả những người sinh hoạt ở trong cái xóm này cũng y như là những bóng ma, vật vưỡng với những thăng trầm, khắc khoải với những suy tư, cập rập với những mảnh tình tưởng như là rất thật …Những bóng ma chập chờn, lúc ẩn, lúc hiện, chỉ thấy tiếng nói mà chẳng thấy rõ con người . Chả biết xấu đẹp thế nào, chả biết già trẻ ra sao . Tất cả chỉ trong phỏng đoán và dĩ nhiên sai số của sự phỏng đoán dường như là luôn rất cao . Xóm ảo cũng có tổ chức như một khu xã thật của loài người . Cũng có viên xã trưởng đứng đầu kèm theo là một vài vị phụ tá . Dưới là những trưởng phòng, trưởng ban , mỗi phòng, mỗi ban đều phụ trách một công việc nghe như là rất riêng biệt, nhưng thật ra thì chung qui lại cũng chỉ là một . Công việc được làm bằng những ngón tay . Những ngón tay thần thánh có thể làm cho xóm ma hưng thịnh hay suy vong . Những ngón tay ma mãnh có thể làm cho xóm ảo có những trận cười vui như tết và chính nó cũng có thể làm cho trời kéo mây đen, tan bầy xẻ nghé, đất nứt hang sâu chôn vùi tình ma dưới lòng địa ngục . Xóm ảo với những luật pháp chế tài mà ông quan tòa là những vị thừa hành . Mức án nặng nhất cho những bóng ma là tước quyền công dân của họ và đuổi họ ra khỏi xóm làng , vĩnh viễn không được về lại , ngoại trừ một may mắn có chỉnh lý hay đợt ân xá …mong manh . Tôi đứng nhìn xóm ảo, cái xóm mà tôi cứ mường tượng là như nó toạ lạc đâu đây, ở ngay cái góc đường Holgate và 82nd . Phía bên kia đường Holgate là chợ Walgreen và xích xuống phía dưới một quãng là chi nhánh thư viện Multnomah . Phía bên kia đường 82nd là cà phê Starbucks và sâu hơn một chút là Wal-Mart .Bởi tôi thấy lảng vảng những bóng ảo trên những con phố này . Những bóng ảo ngồi tụm năm tụm ba uống cà phê bất kể giờ giấc, những bóng ảo ghé chợ shop bất kể ngày đêm, những bóng ảo cũng ghé thư viện đọc sách như là chăm chú nghiên cứu bài vở hay say mê một tác phẩm nào đó . Thậm chí có những bóng ảo ghé Eastport Plaza Dental để làm răng nữa . Lại lạ một điều họ cũng ghé vào dealer xe để lựa mua xe nữa …chả biết để làm gì . Xóm ảo dường như không có ai đi làm, vô công rỗi nghề. Xe cộ đâu dùng được vào cái gì trong cái xóm ma này … - Này bạn . Có phải bạn ở xóm ảo Holgate ? Bóng ảo nhìn tôi mà như là nhìn ở mãi đâu đâu : - Vâng . Sao bạn biết vậy ? Tôi cười : Biết chứ vì đây là xóm ảo mà . Tôi muốn vào làm xóm viên của xóm . Bạn có thể chỉ cho tôi phải làm sao, thủ tục như thế nào .? Bóng ảo nhìn tôi tỏ vẻ ngạc nhiên : Bạn muốn vào sống trong xóm ảo ư? - Vâng (nhưng bạn ơi bạn nhìn ngay tôi đi, tôi đứng ở đây này, ngay bên cạnh bạn thôi , sao con mắt bạn cứ nhìn trệch đi đâu không hà …tôi thầm nói như vậy) - Muốn vào xóm ảo , trước tiên bạn phải biết “biến dạng pháp”. Phải biết biến dạng, thiên hình vạn trạng …Trông bạn chưa thoát tục , làm sao mà hoà nhập với đời sống ảo được . - Trước lạ sau quen (tôi cười cầu tài). Chắc là mình phải biết nhìn trệch con mắt, đối tượng ở bên phải, mình cứ nhìn về bên trái , có thế mới hy vọng bước vào cái xóm này đề huề chăng hay tại cái anh, cái chị xóm viên này mắc bệnh mắt lé ( tôi cũng không biết rõ người này là trai hay là gái nữa), nên mình hiểu nhầm thôi . Mong là hiểu nhầm . - Vào office lấy mẫu đơn gia nhập, điền vào …Chúc may mắn . Tôi có hẹn phải đi, à mà này …Phải chuẩn bị tâm lý nhá . Cuộc sống ảo nó làm mình ghiền đấy , ghiền hơn ghiền thuốc lào "Xóm ơi …như nhớ thuốc lào Đã chôn xóm xuống, lại đào xóm lên" . Nói xong là bóng ảo biến mất , tôi muốn kéo áo y, thị trở lại nhưng đã túm hụt trong hư không . Tôi dè dặt bước vào cái office của xóm, rón rén rút một tờ đơn . Office vắng tanh không người ngồi , nhìn qua nhìn lại mới hiểu là điều khiển văn phòng này bằng toàn hệ thống điện toán không hà . Xóm ảo văn minh hơn xóm thiệt của loài người có hình, có dáng . Tôi chợt rùng mình : cái kiểu này mình phải coi chừng, phải đắn đo suy nghĩ trước khi gõ những ngón tay thô kệch của mình trên tờ đơn . Và thế là tôi bóp trán suy nghĩ, phác hoạ những cơ nguy mà mình có thể vướng vào chân, vào tay hay vào cổ . Tôi lưỡng lự mãi, đứng tần ngần trước cửa office, chưa quyết định . Có nhiều bóng ảo đi qua đi lại nói chuyện với nhau, liếc mắt đưa tình, cười huyên náo . Vui thiệt , cái xóm ảo này . Có một cô , tôi đoán là thế vì cái giọng trong trẻo như con gái trần gian : - Welcome bạn ghé thăm xóm ảo . Tôi lúng túng gật đầu , không biết nói gì thì cô lại nhoẻn miệng cười : - Mời bước vào trong xơi nước, nước trà ướp lài thơm lắm . À thì ra là bóng ảo Bắc kỳ . Chỉ Bắc Kỳ mới nói là xơi nước thôi - Vậy ra …cô mới ở Bắc vào … Cô ta phá lên cười lớn : - Thiệt tình cái anh này …Em đâu cần phải vào chứ . Em cứ ngồi ở Hà Nội mà vẫn dạo trong xóm ảo này cả ngày … - Ơ …tài nhỉ ! Cô ta nheo mắt chớp chớp, đá long nheo tôi . Tôi thiệt sự bị quyến rũ bởi những nụ cười rất tự nhiên, bởi những vồn vã như là rất chân tình, bởi những cú đá mắt rất ư là ngọt, không gượng gạo, không nửa chừng …vì thật ra có nhìn ra rõ mặt nhau đâu mà cần e dè, cần ấp úng . Những người xóm ảo khoác tay nhau dạo phố, những người xóm ảo rủ nhau ra quán cà phê ngồi tán gẫu, tặng nhau những bông hồng vào dịp birthday, vào dịp lễ lậy . Trao cho nhau những lời chúc cao tận trời xanh vào dịp Tết , Thanksgiving, X-Mas ….Nói chung họ rất rộng rãi, rộng rãi trên mọi mặt kể cả những lời tình …Tôi thích những người có tấm lòng thảo như vậy . Tôi quyết định gõ trên tờ application và chờ xã trưởng quyết định cấp visa để ra vào xóm . Đêm về nhà cứ mơ mơ, màng màng , mong sao ngài xã trưởng duyệt lẹ một chút để tôi có thể chễm chệ ngồi vắt chân lên cổ mà gẫu chuyện với dân làng . Đêm chả ngủ gì được, đúng là dễ ghiền thật , chưa gì mà đã mất ngủ rồi …Chắc chắn là còn nhiều cái ngạc nhiên khác đang chờ tôi ở cuối xóm . Tôi chính thức bước vào trong xóm một buổi sáng mùa thu . Trời đẹp lắm. Trên bàu trời, những áng mây vàng bay lơ lửng. Ngoài đường và trong vườn nhà lác đác những chiếc lá vàng chao lượn, cảnh vật làm lòng tôi lâng lâng, rộn rã như ngày xưa lúc còn bé tí được mẹ dắt về quê ngoại, nhìn cảnh lạ nơi quê mẹ cái gì thấy cũng đẹp, cái gì thấy cũng vui . Tôi chạy, tôi nhảy, tôi xục xạo chỗ này , tôi mò mẫm chỗ kia . Những bông cúc trắng trong vườn nhà bên nở trắng vườn như cũng nở trắng lòng tôi . Đang thờ thẫn như lạc mất hồn trước cảnh sắc thơ mộng của khu xóm thì bên tai nghe giọng khàn khàn :" Mới tới hả? Vào đây, vào đây chơi đi. Tớ có hoàng hoa tửu mời bạn đây." Tôi giật mình ngơ ngác " Trời ạ thời này mà còn có hoàng hoa tửu, đúng là mình đã lạc về quá khứ vài trăm năm rồi ". "Thu ẩm hoàng hoa tửu Đông ngâm bạch tuyết thi". Mãi sau này tôi mới nhận ra là cụ Ngã Ngửa. Cụ là Hương chủ trong xóm, tối ngày chỉ thích ngâm nga thi phú. Đang lưỡng lự không biết có nên ghé vào nhà của cụ không , vì tôi cảm thấy ngại quá trước toà lâu đài thật nguy nga đồ sộ của cụ, thì phía bên kia con lộ nhỏ lại có tiếng gọi :" Ê , Ốc Biển, ghé lại đây...". Không biết có phải gọi tôi không, tôi ngơ ngác nghiêng cái tai về phía đó. Một giọng trong trẻo nghe rất êm như giọng hát của Như Quỳnh :" Phù tỉ wẹo cằm Ốc Dzị nha...". Đúng là gọi tôi rồi. Tôi liếc nhanh qua Phù tỉ. Ôi đúng là một thiên hương quốc sắc, tôi khớp...nên quay nhanh qua chỗ khác, tủm tỉm cười một mình...Mình có gan trời cũng không dám bước vào khuê phòng thơm nực mùi ngọc lan của người. Tôi lảng đi quên cả nói một lời cám ơn. Ngày đầu tiên dân xóm ảo chào đón tôi rất nồng hậu. Tuy nhiên không phải ai cũng mau mắn như vậy đâu, cũng có một số người giữ thái độ im lặng như chưa hề biết xóm ta có thêm người mới dọn vô ở. Tôi vội vã về góc xóm lo cất lên một túp lều cỏ để che mưa , che nắng. Dân mới tới mà làm sao so bì với thiên hạ được chớ. Cái lều của tôi nằm khiêm nhượng dưới gốc một cây thông. Cây thông gió thổi kêu vi vu ngày đêm, nghe có lúc nhộn nhịp thật vui nhưng cũng có lúc nghe buồn não ruôt. Tôi cố gắng sơn phết , trang hoàng túp lều bằng những áng thơ ngây ngô . Những áng thơ tôi dán lên những liếp vách trông thấy mà thương , chúng gầy gò, ốm yếu, nghèo nàn , đôi lúc tôi cảm thấy ngượng với bàng dân thiên hạ . Nhưng nghĩ lại rồi tự nhủ với mình “ Họ biết mình mô tê mà ngại chi “ . Và nhất là tôi có cái số may, ngay từ những ngày đầu tiên, có một bóng hồng trẻ, đẹp luôn bên cạnh tôi , khuyến khích, giúp tôi một bàn tay : - Cố lên Dzị . Nhà Dzị rồi sẽ đẹp thôi . Tôi thầm cám ơn cái cô bé Sinh Ngôn ấy . Chả biết cô bé giờ ở đâu sau cơn bão năm nào. Cơn bão phát sinh từ một cơn địa chấn cực mạnh của Satăng dâm uế. Cơn bão thổi dọc bờ biển Florida ngược về phía Tây Bắc , xóm của chúng tôi bị ảnh hưởng nặng nề . Một số bóng ảo đã phiêu bạt, dấu hiệu của sự ghé mắt của thượng đế trên lầm lỗi của loài người và như con dân Do Thái xưa, lưu lạc mười phương . Chùm Ngao, Sinh Ngôn đã ra đi từ ngày ấy . Xóm lại vắng thêm những lão tiên ông một thời vang bóng . Tôi vuốt mặt buồn xo :… "những người muôn năm trước hồn ở đâu bây giờ !?" Một phút nản lòng tưởng là mọi chuyện rồi sẽ qua đi, nhưng dấu ấn đã muôn đời không phai, như vết thẹo để lại trên da, đã đôi lần nhắc nhớ nỗi buồn . Những người còn lại, co cụm bên nhau mà sống, mà hát “hận Đồ Bàn” : Người xưa đâu … Lão xã trưởng thì chỉ thích vân du tứ hải, đôi khi bỏ xóm đi biền biệt . Tôi đã dăm lần, bẩy lượt khăn gói lên đường đi tìm lão , kéo lão về để lo đại sự , nhưng cũng đành thúc thủ mà phó thác cho ông trời . Ai bảo ông trời cho lão ta có cái học uyên thâm, có nhiều tài năng xuất chúng, hơn người . Tôi ngưỡng mộ lão mọi điều, duy có một điều tới giờ này tôi vẫn cứ cười thầm là lão đã có một lúc tưởng tôi là Áo lụa Hà Tây, người con gái bé bỏng, nhu mì của lão . Tôi nghiệm ra một điều : trong xóm ảo, ngay cã xã trưởng cũng mù tịt về cư dân của mình. Cô Phù là người có phần lo lắng cho xóm nhiều nhất, ngay cả lúc này cũng thế dù cô đã về hiu rồi . Tôi nhớ đã có lần nào đó tôi ước mình là “Thượng Đế” để xoa dịu nỗi buồn Phù cô, nhưng tôi đã chả xoa được, mà đôi khi lại khuấy nỗi buồn cô đông đặc . Tôi mãi giận mình . Có những chiều ngồi trong túp lều của mình, chống cằm nhìn ra ngoài, nhìn những làn khói toả mông lung, tôi nhận ra mình cô đơn chi lạ, đã đến lúc phải đi tìm lại cái “nửa mình” đã thất lạc từ muôn năm trước rồi đây . Tôi uể oải bước ra khỏi căn lều, tiếng thông reo như mời gọi, như thúc dục , tôi lững thức bước đi về hướng mặt trời lặn . Hoàng hôn thật đẹp, những tia sáng yếu ớt của một ngày còn phớt nhẹ trên những bông cúc trắng vườn ai . Tôi ngẩn người, say mê ngắm vườn hoa. Vài chú bướm vàng nhởn nhơ bay, những bông hoa cúc vẫn lạnh lùng, vẫn ung dung cùng chúng bạn, vui hát, nhảy múa khi những đợt gío nhẹ lướt qua . Tôi mê man trong cảnh sắc ấy mãi cho đến khi bừng tỉnh , mới chợt nhận ra mình đang đứng giữa rừng hoa, những bông hoa rất đẹp được chau chuốt, chăm nom rất kỹ lưỡng bởi một bàn tay nghệ nhân điêu luyện . Người chủ vườn hoa này nhất định là người tài hoa, phong lưu, đài các . Có tiếng ai hát nho nhỏ ở trong nhà : Người ơi ! Một chiều nắng tơ vàng hiền hoà, hồn có mơ xa … Tôi nói vọng vào : - Vườn hoa tuyệt quá , cho tôi đứng ngắm một chút nha . - Cứ thự nhiên . Ôi giọng nói ai mà ngọt quá đi. Ngọt hơn mía lùi ở cái xóm Ngả ba Ông Tạ ngày xưa của tôi . Giọng nói mà đã bao năm , dù thăng trầm mấy độ, mà tôi vẫn còn giữ ở trong tim, vẫn còn ấp ủ nồng nàn. Gịong nói, giọng hát ôi sao mà quen thế . Tôi tò mò hé nhìn vào bên trong , một bóng dáng mảnh mai đang đứng trước gương chải tóc. Mái tóc mượt mà, chảy dài trên bờ vai thon nhỏ . Có phải người xưa không , Cỏ Úa năm nào đã tưởng chìm vào lãng quên ? Nhưng không phải. Tôi thẫn thờ qua từng câu chuyện với nàng . Duyên dáng ơi là …Từ đó tôi ngẩn ngơ như người mất hồn, tôi vui khi trò chuyện với nàng , tôi buồn khi bắt gặp nàng thân mật với người ta , tôi mất ngủ hằng đêm, người gầy đi, hốc hác …Tôi đi bác sĩ, bác sĩ bảo tôi thiếu dinh dưỡng , mất ký quá nhiều, cần nghỉ ngơi, bồi bổ cơ thể lại . Nếu không có thể sinh bệnh , sẽ rất phiền . Đúng là tôi đã quên ăn , quên ngủ nhiều ngày rồi . Cái vườn hoa ấy là vườn hoa Tao Đàn của tam tiên cô : Hà Tiên Cô, Hoang Tiên Cô và Giang Tiên Cô . Ba đoá hoa rực rỡ, tài sắc vẹn toàn, cầm kỳ thi hoạ đều tuyệt vời . Mỗi tiên cô mộĩ vẻ riêng biệt, ai cũng làm tôi ngây ngất thán phục . Hoang Tiên Cô thì biết tôi tương tư rồi nên hay đùa dỡn tôi hoài : - Muốn gì thì hối lộ cho bổn tiên cô một gói khô bò , mọi chuyện sẽ xong ngay - Sao ? Một hũ me ngào là có một buổi hẹn hò vui vẻ … Đại khái là những lời ngộ nghĩnh như vậy . Nhưng giời ơi, tôi đi tìm hết mấy chục cái chợ Mỹ ở đây mà vẫn không tìm ra khô bò và me ngào , nên cứ tức hùi hụi . Miết rồi tương tư cũng mãi chỉ là tương tư . Ấy thế mà cũng có vài phen sóng to gío lớn, sét nổ trong rừng hoang khi những nghi hoặc khoác áo từ đâu lù lù tới, bao trùm chúng tôi, quật chúng tôi túi bụi, không đường chống đỡ . Những giao du từ hôm đó gián đoạn . Tôi thất tình bỏ xóm đăng vào quân đội đánh Iraq . Ơ Iraq tôi thật sự đã xa xóm ảo, vì an ninh tôi chớ hề dám ghé quán cà phê internet lần nào, dù nhớ nàng, nhớ bao người thân trong xóm biết nhường nào . Ngày vui qua mau, tôi lầm lũi ngày đêm bên bờ ranh của sự sống chết . Hôm qua mới nghe tin bom xăng nổ , giết chết mấy chục con người, hôm nay chưa mở mắt ra đã nghe ôm bom cảm tử lao vào chỗ đông người . Chiến tranh đã cướp mất cả hồn thơ mơ mộng của tôi rồi .Tôi quên mất cà tôi nơi chiến trường . Con người và cuộc đời luôn như là xung khắc, chẳng thuận chiều ý nhau . Bể khổ là đây chăng ? Rồi ngày tôi trở về tìm lại xóm xưa . Xóm xưa giờ đã thay đổi rất nhiều . Bóng nàng đã khuất nẻo xa . Vườn hoa của Tam tiên cô giờ sao xơ xác, không người trông coi, chăm bón . Tôi đứng nhìn mà lòng quặn thắt, đau thương .Bóng dáng một Niệm Hương thỉnh thoảng ra vào . Có phải lòng ai còn vương vấn ? Hay cũng chỉ là một đóm tàn trên vùng ký ức đã cạn khô ? Tôi muốn nâng chiếc quạt lên để khơi lại một chút ấm của lò sưởi năm xưa, khi cuối đường chân đã mỏi, tay đã rung . Mà nào có được đâu … Tôi lại như một bóng ma thất thểu trong xóm ảo đơn độc một mình . "Những người muôn năm trước hồn ở đâu bây giờ ! ?" kho truyen sex THẾ GIỚI SEX

Xóm Cầu Ngang

kho truyen sex Xóm Cầu Ngang Tác giả: Hòa Đa 1 Dân miền Nam dễ dãi trong việc đặt tên người và địa danh. Cha tên Khỏe, con là Mạnh. Cha tên Lúa, đặt cho các con: Dun, Đầy, Bồ, Mừng, Dui... Cứ nghĩ sao, đặt vậy; cũng là cách biểu thị lòng mơ ước của người bình dân. Địa danh cũng vậy, cái gì chỉ ra được cái chung cho nơi đó thì họ gọi tên như vậy: Giáp Nước, Ngọn Miễu, Xóm Đình...Tên "chữ" chỉ nằm trên giấy tờ hành chánh. Thành thử trong miền Nam có bao nhiêu chỗ có tên Giáp Nước, Ngọn Miễu, Xóm Đình...? - Nhiều lắm, không chừng tỉnh nào, làng nào, xã nào cũng có. Cho nên câu chuyện tôi kể về Xóm Cầu Ngang này cũng có thể giống như bất kỳ Xóm Cầu Ngang nào khác, ở một làng một xã nào đó trong miền Nam, nơi sông rạch chằng chịt. Chỉ cần một cây cầu, bằng xi-măng kiên cố hay chỉ miếng ván, thân cau, cây tre... lung lay, nối hai xóm ở hai bờ con rạch hay con sông nhỏ, cũng có thể làm cư dân quanh đó chấp nhận cái tên "Xóm Cầu Ngang". Hồi đó, lúc mới về làm ruộng, tôi vô tuốt trong Ngọn Miễu, sống heo hút một mình, kiểu như chán mọi chuyện, tưởng mình theo gót Lão, Trang; tìm nơi vắng vẻ, có gì ăn nấy, cứ thuận theo thiên nhiên mà sống. Phải chi không vợ con, có lẽ tôi cũng "tu" theo kiểu đó rồi. Ngặt một điều, mấy đứa con ngày càng lớn, tụi nó cũng phải đi học, phải có bạn... không lý gì tôi bắt chúng phải "tu" theo mình. Còn vợ tôi nữa, đành rằng "có chồng thì phải theo chồng, đói no cùng chịu, lạnh lùng cùng cam" nhưng thấy sao mà tội quá. Cho nên, chỉ sau vài năm, tôi sang lại miếng vườn nhỏ ở Xóm Cầu Ngang, rồi dọn về đó, lòng nhủ lòng, đó là do mình "thương vợ thương con"! Bà con trong xóm, thấy tôi có chút chữ nghĩa hơn họ, gọi tâng là thầy, tôi thứ năm, họ gọi chết danh "thầy Năm" cho dù tôi không phải thầy giáo, thầy tụng, thầy ký... gì hết; không mấy người biết tên thật của tôi. Xét cho cùng, có cần gì biết tên họ thật, họ chỉ cần tên gọi để ai cũng nhận biết là được rồi, cần chăng là mấy người làm việc trên xã, nhờ tên thật khai trong đơn xin mua này mua nọ, hay trong hộ khẩu. Cả ấp, chỉ có hai "thầy" thứ thiệt là thầy giáo Lễ dạy ở trường cấp một và thầy y tá Hường phụ trách phòng y tế xã, nhưng cả hai đều ở tuốt ngoài Xóm Đình, cách xóm Cầu Ngang của tôi hơn hai cây số. Cả xóm chừng ba mươi nóc gia, nối nhau bằng chiếc cầu ngang ba nhịp, nhịp giữa là một thân cau lão, lung lay như răng bà già, vắt ngang con kinh chảy quanh co giữa mấy khu vườn um tùm mấy đám ô rô, cóc kèn, dừa nước mọc dày ken ở hai bờ; nhiều đêm tối trời bơi xuồng, không thấy được mũi xuồng đằng trước. Đúng ra, cầu có tay vịn bằng tre, nhưng không biết ai rắn mắt gỡ mất, có ai đó thay tạm một cây trúc thấp tè ngang đầu gối, quặt quà quặt quẹo; ban ngày ban mặt, đi một hơi năm bảy bước là qua nhịp bên kia, còn ban đêm tối hù, thôi thì bò bò đi cho chắc ăn. Cầu này hồi trước do Xây dựng Nông Thôn làm, cả ba nhịp bằng xi-măng chắc chắn. Bây giờ, chỉ còn lại hai đầu là hai tấm xi-măng mẻ nhan nhở, lòi cả cốt sắt bên trong, gối lên hai bờ, còn miếng lớn ở giữa dài hơn hai sải tay đã mục gãy, cắm đầu xuống lòng sông, cư dân hai bên bờ thay nhịp giữa, khi thì tấm ván bìa, khi thì thân cau, thân dừa lão. Có vậy còn hơn phải lội bọc lên phía trên hay phía dưới cách hơn cây số, hay phải lội băng ngang sông. Cư dân gồm cả dân cố cựu, cả ba bốn đời lập nghiệp ở đây, cùng với đám mới ngụ cư như gia đình tôi và Hai Phang, ngày trước đi Xây Dựng, nay về sống đùm đậu với má vợ, giáp ranh nhà tôi. Bên kia con lạch nhỏ là nhà Hai Lý, con năm đứa, hai Việt, hai lai trắng, một lai đen. Hai Lý một thời đi bán ba, chồng đạp xích lô ở Sài Gòn. Trừ mấy người mới về, còn thì hấu hết là bà con xa gần với nhau. Nghề chính của dân trong xóm là làm ruộng, trước khi vào tập thể có nhà có đến mười mấy, hai chục công ruộng, sau đó chỉ còn lại năm ba công, tùy theo số lao động trong nhà nhiều hay ít. Nam phụ lão ấu trong xóm có đủ, từ mấy lão nông tri điền, bảy tám mươi tuổi, đi ruộng từ lúc còn trong bụng mẹ, cho đến đám loi choi mới lớn. Từ ngày làm ruộng kiểu tập thể, người dân không đủ sống, quay ra làm đủ thứ nghề tay trái khác: xe đạp ôm, gia công dệt thảm, dệt chiếu cho mấy tập đoàn chiếu thảm xuất khẩu ngoài tỉnh, bán cà-rem, hớt tóc dạo, mua ve chai lông vịt... đủ nghề hết! Chỉ một hai năm sau, dân trong xóm ai cũng thuận tay trái hơn tay mặt. Lúc phải làm, họ ráng sức làm chết bỏ, quên ăn quên ngủ, lúc rảnh rang, họ nhậu, mà cũng nhậu tới bến, quên ăn quên ngủ. 2 Tiếng Tư Em bên ngoài vọng vào - Thầy Năm ơi! ông Tư, ông già của Chín Đẹt gần "đi" rồi, thầy muốn qua đó một chút hôn, sẵn đuốc nè, mình đi luôn, có cả Hai Phang nè. - Anh Tư chờ một chút, tui xỏ cái áo rồi ra liền Ba anh em bò qua Cầu Ngang. Nói bò là đúng vì không dám đi, nhất là trong đêm hôm, trời lại mưa rỉ rả. Nhịp giữa cầu là một thân cây cau. Nhà Chín Đẹt thắp sáng bằng hai cây đèn măng-sông ếch-đa của Tám Lú và Sáu Cu cho mượn, trong nhà đầy người, từ nhà trên xuống nhà dưới, ba bốn chiếc bàn tròn được bày dọc hàng hiên vì trời vẫn còn mưa lất phất. Bà con quanh xóm tụ lại, đàn bà, thanh niên lo kê bếp, nước nấu liên tục để châm trà, đàn ông ngồi túm tụm ở nhà trên bàn chuyện và... chờ. Ông Tư nằm một chỗ cũng mấy tháng nay, nên cả Chín Đẹt với bà con chòm xóm thấy chuyện ổng về với ông bà chỉ còn là ngày một, ngày hai. Chín Đẹt cũng lo liệu cho cha đầy đủ, quan tài đóng sẵn từ lúc hai ông bà còn sống, bả đi trước rồi, bây giờ ổng theo. Phần đất dành cho ông Tư, ngay sát cạnh bà Tư cũng đã được đám thanh niên trong xóm dọn dẹp trống trải. Hồi chiều thằng Hai, con rể chín Đẹt qua tuốt bên Giáp Nước đem về một con bò cột đàng sau, chờ làm đám. Ngồi chơi với anh em một chặp, tôi xin kiếu về... Chừng gần sáng, lúc tôi châm bình trà mới thì Tư Em đi ngang báo tin: - Thầy Năm ơi, ông Tư đi rồi... Nhà Chín Đẹt bây giờ còn tất bật hơn hồi đầu hôm, con bò làm đám đã được đâm họng và đang xả thịt, tiếng người nói, tiếng dao thớt va chạm lao xao... Ở nhà trên, người ta đã thay quần áo cho ông Tư bằng bộ bà ba trắng còn mới, hai ngón chân cái được cột dính bắng rẻo vải trắng, nải chuối xanh đặt ngay ngắn trên bụng. Quan tài của ông Tư được kê ngay ngắn giữa nhà, trước bàn thờ, đã lót hai chiếu mới và vải trắng phủ ra ngoài thành quan tài. Trong góc nhà, ba bốn người đang dùng giấy báo cuốn bông gòn đã rút sạch lõi và hột, làm loa kèn để liệm người chết. Có tiếng út Một: -Bà con cuốn giùm cho đều tay, đừng chặt quá, đừng lỏng quá !Chặt quá tốn gòn; lỏng quá dễ sút. Ờ, ờ như vầy là được rồi . Người ta chờ rước thầy tụng, và nhờ người xuống chùa ngoài chợ huyện xin thầy coi giùm giờ liệm, giờ chôn cất. Ông Năm thợ mộc đang tính toán số con cháu ông Tư để xé khăn tang. Bà con chòm xóm quá quen thuộc với việc ma chay nên ai làm được việc gì giúp gia chủ thì làm. Có tiếng Hai Phang: - Thầy Năm, chín Đẹt muốn nhờ thầy... Tôi biết anh chín muốn nhờ gì rồi, từ ngày "định cư" ở xóm Cầu Ngang này, tôi nghiễm nhiên trở thành "thư ký" của mấy đám quan hôn tang tế trong xóm. Trước tôi do ba Quang, con dì Ba Xệ, học hết tiểu học lo, khi tôi về sống trong xóm, ba Quang giao tôi, nói tôi có chữ nghĩa nhiều hơn. Tôi chịu trách nhiệm về sổ sách chi thu, đám ma ghi rõ ai phúng điếu bao nhiêu, chi tiền chợ cho ai bao nhiêu; đám cưới ai đi mừng bao nhiêu. Phần tiền mặt do một người bà con gia chủ giữ; miễn sao cho tiền trên giấy tờ và thực tế ăn khớp nhau là được. Tôi cũng vui vẻ nhận, mình từ chợ về, không biết gì nhiều về tập tục dân làng, lại không phải là người có sức vóc gì, thì giúp cho họ trong việc ghi chép phân minh việc tiền bạc cũng là việc nên làm, sẵn dịp học cách sống thật của người dân quê mà đám có học ngoài "chợ" chỉ biết rất mù mờ qua sách vở, tiểu thuyết. Một chiếc rạp được dựng tạm ngoài sân che nắng, gần chục bộ bàn tròn đã bày ra. Đám thanh niên mau tay lẹ chân lo hết mấy việc này, họ bơi xuồng đến mấy nhà kha khá mượn chén dĩa, nồi niêu, bàn ghế. Mượn của ai, nói thư ký ghi giấy, mai mốt gia chủ cứ theo đó mà trả. Sinh hoạt này, ngày trước sống nơi thị tứ không thấy. Ở đây, một nhà hữu sự, mọi người cùng góp công, góp sức, nhất là những lúc bất ngờ như vầy, không thấy ai kêu ca hay từ chối, bất kể có mất mát hay hư hao chút đỉnh. Mà cũng ngộ, nhà nào cho mượn cũng có dấu riêng, như hai bộ bàn ghế cùa Bảy Dẹt có ghi 7d ở mặt dưới; còn chén dĩa thì họ chấm sơn màu ở khu. Thường tôi phải ghi rõ: Hai Tú 10 tô, 30 chén, chấm vàng; Tám Ú 5 tô nhỏ, 6 dĩa, 15 chén, 2 chấm xanh... còn đũa chỉ ghi bao nhiêu đôi, lúc trả gia chủ chỉ cần đếm cho đủ mà trả, thiếu chút đỉnh không sao; đủa tre mà, một lóng tre già chẻ được hơn chục đôi, của có sẵn, ngồi chuồt chừng tiếng đồng hồ, được cả rỗ Dân trong xóm đã tụ lại khá đông, họ ngồi uống trà bên ngoài. Bên trong, thầy tụng đang làm lễ nhập quan và phát tang cho con cháu ông Tư. Tiếng thầy í a lên xuống đều đặn theo tiếng chuông mõ, tiếng khóc khi lớn khi nhỏ lao xao với tiếng người nói chuyện rì rầm... Người ta khen ông Tư được phước, chết ở tuổi tám mươi ba là thọ quá rồi, con cháu đầy đủ, ấm cúng. Hồi còn sống, mỗi khi qua chín Đẹt chơi ông vẫn thường chỉ cho tôi coi cỗ quan tài bằng lõi gỗ còng nâu bóng và nặng trịch kê trong góc chái mà nói: - Năm coi, như vầy là qua yên tâm rồi, chỉ còn chờ ngày theo bả thôi. Chín Đẹt chen vào; - Tía tui khoái nó lắm, hồi nẳm, tui cho hạ cây còng lão, lõi ra gần tới da, đem ngâm dưới mương cả hai ba năm rồi nhờ ông Năm Thợ Mộc đóng cho tía má tui hai quan tài, bả nhường cho ổng phần gốc. Bả nói, để ổng chết, ổng nằm trong đó cho lâu, khỏi sợ con gì đụng tới... Người ta bắt đầu phúng điếu, họ nhường cho thông gia đi trước. Tiếng trống tung tung chát tung tung cùng với tiếng chập chõa xập xòa giữ nhịp cho việc lên gối xuống gối quì lạy giã từ người chết Thông gia đông quá, chín Đẹt là con út mà đã có tới hai sui rồi, kể hết sui gia với mấy anh chị, tính ra gần hai chục. Họ phải đến chào ông Tư lần chót, đạo nghĩa phải như vậy, ổng là bực trưởng thượng, với lại anh em ngày một xa, sui gia ngày một gần mà! Thằng hai con chín Đẹt mang tiền trên bàn thờ xuống: - Thầy Năm ghi giùm: sui cô Bảy hai trăm, sui bác Ba hai trăm, ba chồng con tư ba trăm... cứ ghi như vậy tía tui biết hà. Bên ngoài bắt đầu lao xao mời chào, tiếng hai Phang: - Dạ, mời chú tư ngồi vô bàn này cho đủ người! Dạ, chú về sao được, tới cúng ông Tư rồi, cũng phải uống ly rượu lạt vói gia đình cho phải phép... ... Cứ như vậy, người nào tới lúc trời kêu cứ đi, kẻ còn lại vẫn cứ nếp cũ mà sống. Có người uống vài hớp rượu gắp vài món ăn cho phải lễ rồi xin kiếu, cũng có người mượn rượu gia chủ để miệt mài thỏa mãn. Có lần hai Phang buông thỏng "... hèn chi có người gọi đi phúng điếu đám ma là đi chia thịt!"... Xong đám, hôm cúng thất cho ông Tư, nghe bà con nói, ông Tư chết như vậy là ấm cúng, trong xóm ai cũng tới cúng, mấy người quen biết ở xóm Đình, Ngọn Miễu cũng đến. Tiền phúng điếu, sau khi trừ hết mọi chi phí, chín Đẹt còn "lời" hơn năm ngàn. Tư Em nói với tôi qua hơi rượu: - Thầy Năm biết hông? không phải ai cũng được vậy đâu, hồi nẳm thầy chưa về; trong xóm, có ông hai Tổng chết. Nhà giàu quá, thằng con làm phách nói: "Lo gì! mỡ trôi tới đâu, lòng tong theo tới đó" dân trong xóm nghe được, không thèm tới! Chỉ có đám tá điền sợ mất ruộng, đến cúng cho có mặt, báo hại con bò, con heo gần một tạ với hơn chục gà vịt chết theo ổng lảng nhách. Sau mấy ngày, thằng con phải năn nỉ ông Năm thợ mộc hồi đó làm trùm trong xóm, đem khay trầu rượu xuống Xóm Đình năn nỉ đám "dưng quan" xuống khiêng quan tài, mà ở bển nghe bên này không làm cũng phải cử người vô xin phép trước. Sau đó đám con cháu hai Tổng hết dám làm phách với dân trong xóm, nhưng câu nói "mỡ trôi tới đâu, lòng tong theo tới đó" còn hoài. 3 Đám cúng thất cho ông Tư xong hôm trước, hôm sau cậu năm Côi dựng nhà. Cả đời gom góp, gần sáu mươi, cậu mới dựng được căn nhà có phần bề thế đó. Cậu năm về cặm dùi ở đây từ hơn ba mươi năm nay. Hồi đó chỉ có vài nóc gia, ruộng thì minh mông mà ở đâu cũng có chủ, phải mướn lại qua trung gian của tằng khạo. Ăn ít làm nhiều, ky cóp mua lại được mấy công đất cạnh bờ kinh, móc mương lên liếp lập vườn... Tính ra hơn hai mươi năm cậu mới đủ tiền đổ móng cuốn nền, lót gạch bông, tới đó hết vốn đành cất tạm căn nhà lá trên nền gạch bông, tuy coi khá hơn mấy nhà chung quanh nhưng ngó kỳ cục giống như mấy bát nhang chưn đèn bằng sành, bằng gỗ thô, ngự trên tủ thờ danh mộc có cẩn hoa văn xà cừ óng ánh. Hai người con trai lớn của cậu Năm chuyên đổi ve chai lông vịt ở xa, mỗi chuyến ghe mất ba bốn tuần, cũng cần cù chắt mót như cha, góp tiền mua được bộ cột kèo bằng cây rừng từ xưởng cưa máy ngoài tỉnh. Ba cha con ky cóp gần cả chục năm nay, bây giờ mới dựng căn nhà tương đối kiên cố khang trang. Ông Năm thợ mộc được mời tới xẻ đục gần tháng mới xong, lúc đó mỗi lần tôi có việc đi ngang, thế nào cậu năm Côi và ông Năm thợ mộc cũng hú vào uống nước trà. Ông thợ giỏi nghề và khéo tay, lại có tiếng là hiền đức, mát tay nên ai cũng cậy ông dựng nhà. Ông cũng lớn tuổi, biết nhiều tập tục nghi lễ cũ theo sách Văn Công Thọ Mai, nên ai có việc cũng nhờ tới ông. Tôi thích ông vì ông biết nhiều chuyện mà tôi không thấy trong sách vở hồi còn đi học. Có lần vui miệng ông Năm thợ mộc nói: - Thầy năm biết hông, hồi mới học nghề, thầy tui dạy đóng cái "kệ" trước, mà không phải riêng tui, ai học nghề này cũng học đóng cái "kệ" trước. - Sao vậy ông năm? sao không học đóng cái gì cho dễ mà đóng chi cái kệ cho khó trước? - Thầy hổng biết, nghề này cưa xéo một chút, đục trật một chút, đẽo hư ... cái gì cũng nói "kệ" nó, hổng phải nghề này học đóng cái "kệ" trước à? Lần khác, Hai Phang sửa lại chái nhà, kê phần gốc tre làm kèo chái lên trên, ông Năm thợ mộc cười cười nói: - Trồng tre trở gốc lên trời, con chị xong rồi, tính tới con em. Hai Phang khoái chí, chả là cô em vợ Hai Phang thấy cũng có cảm tình với ông anh rể đàn hay, hát giỏi xuất thân từ lực lượng tay súng tay cày này. Hôm dựng nhà, tôi cũng lên góp một tay, gì thì gì, mình cũng làm thợ vịn thợ phụ được mà. Trước bàn thờ, bày sẵn ba hũ sành đựng đầy gạo, muối, nước, một con heo nhỏ và một con gà cột ở chân bàn thờ; Trên bàn bày bình bông, xôi chè, bánh ngọt, và một dĩa trái cây gồm một trái mãng cầu, một trái dừa xiêm nhỏ, một trái đu đủ còn xanh và một trái xoài; Cậu năm Côi quần áo chỉnh tề thắp nhang khấn vái, cầu quỉ thần, đất đai nhân trạch, tổ tiên ông bà, xin được "cầu vừa đủ xài" và trong nhà lúc nào gạo, muối và nước lúc nào cũng đầy lu đầy hủ, cầu cho lúc nào cũng nuôi được con heo, con gà để không bỏ phí đồ ăn thừa, hột thóc rơi rớt ... Mơ ước của người bình dân đơn giản như vậy đó mà lắm lúc cũng không có được. Cúng xong, mọi người xúm vào làm theo lịnh của ông năm thợ mộc, chỉ hơn nửa buổi, sườn nhà đã dựng xong. Cơm nước, gia chủ đã dọn sẵn trên ba bàn tròn, mời mọi người dùng bữa chờ nước lớn để gác đòn vông. Chuyện này thì có lần tư Em đã nói với tôi, người ta tin rằng, gác đòn vông lúc nước lớn gần đứng là lúc sung nhất, gia chủ nhờ vào sự đầy đủ của con nước mà làm ăn khá. Việc nhìn con nước lớn để làm những việc hệ trọng này, tôi chỉ thấy ở trong Nam. Như việc rước dâu chẳng hạn; ở chợ hay ngoài Bắc, ngoài Trung, thường người ta rước dâu vào giờ tốt; trong Nam, giờ tốt là giờ nước lớn đầy. Ông bà mình cũng khéo tạo thành một thứ tin tưởng có tính thực dụng, vì thường ở trong vườn người ta rước dâu bằng ghe, rủi giờ tốt rước dâu (như kiểu ngoài Trung, ngoài Bắc) nhằm lúc nước ròng sát đáy sông (dám có lắm chớ!) thì thiệt là phiền, làm sao đưa với rước cô dâu, chú rể và họ hàng hai bên xuống ghe qua bãi bùn lún tới gối? Đang ngồi chung bàn với Tư Em và Hai Phang, cậu Năm Côi lại khều tôi và Hai Phang nói nhỏ; - Qua nhờ hai cháu một chuyện, tí nữa lúc thượng đòn vông, hai cháu làm sao cố cầm Bảy Lượm ở bàn nhậu, rượu thịt qua biểu sắp nhỏ lo, cứ cho chả uống thả giàn, làm sao đừng cho thằng chả leo lên mái... - Sao vậy cậu năm ? - Tôi ngạc nhiên hỏi lại - Thằng chả cũng là thợ mộc, biết bùa Lỗ Ban! chả lên đó đóng bậy cây đinh ếm là qua khổ suốt đời. Cũng hổng chừng, chả lên đó làm bộ trật tay quăng cây búa đóng đinh của chả trúng nhằm ngạch cửa là qua cũng tiêu, cháu không biết chớ thằng chả độc lắm, chả ghét ai thì ếm cho tiêu luôn, nên qua sợ... Cả đời qua, cả nhà qua chắt mót dành dụm mới có được như vầy, qua sợ thằng chả ganh ghét làm bậy, thà tốn rượu thịt cho thằng chả mà qua có thể yên tâm... Chiếc đòn vông có bịt hai vuông vải đỏ hai đầu kê trang trọng giữa nhà. Ba Quang từ bờ sông chạy vào kêu lớn: - Nước đứng rồi, ông Năm ơi! Hai người trung niên đã lên ngồi sẵn trên mái, hai người khác đang đứng chờ cạnh cây đòn vông. Ông Năm thợ mộc thắp nắm nhang đứng cạnh gia chủ, trước cây đòn , khấn. Sau khi cắm nhang vào bát, ông quay lại nói: - Cẩn thận nhen bây, chuyện quan trọng đừng giỡn hớt không nên. Hai người bước tới, cùng một lúc trang trọng nâng chiếc đòn vông, bước từng bước một lên hai chiếc thang được dựng sẵn. Tiếng ông Năm thợ mộc nhắc nhở: - Đi lên cho đều, có hai chú nào quởn, vịn giùm hai cái thang cho vững... Hai người ngồi sẵn đón hai dầu chiếc đòn vông. đặt đúng vào vị trí hai kèo trước và sau giao nhau... Đến chiều, căn nhà của cậu Năm Côi cũng dựng xong, chỉ còn ráp bộ cửa, ngày mai ông Năm Thợ Mộc sẽ lo. Gia chủ lại mời mọi người ăn, lần này thì nhậu thả cửa vì công việc đã hoàn tất. Tôi gần xỉn vì phải cùng Hai Phang chuốc rượu cho Bảy Lượm, nhưng cũng không kiếu về được vì cậu Năm Côi nài nỉ quá. Tư Em cũng đủ đô, bắt đầu lè nhè nói thơ: - Thày Năm biết "Tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu" là gì hông? Không đợi tôi nói, Tư Em giải thích luôn: - Rượu gặp người tri kỷ (như thầy Năm đây) thì có trời mới biều thôi. thầy Năm hiểu hông thiên bôi thiểu là trời biểu thôi mà, phải hông thầy Năm, thầy dô cạn ly này tôi đọc thơ thầy nghe: Rượu uống đừng say giữ tính thường Tránh đường hoa nguyệt khỏi tai ương Đừng ham cờ bạc còn gia sản Giận tức mà dằn họa khỏi vương phải hôn thầy Năm. thằng cha Bảy Lượm đó mà Lỗ Ban con mẹ gì, thầy Năm. Tôi hoảng hồn đá chân Tư Em cản - Thôi nghen Tư Em, rượu uống bậy được chớ lời không nói bậy được nghe Tư Em. - Tui nói thiệt mà thầy Năm, hồi thầy chưa về đây, nhà thằng chả bị ăn trộm, chả đi khắp xóm nói chả sẽ ếm bùa, thằng lấy trộm nhà chả trong xóm chớ không đâu xa. trong vòng bảy bảy bốn chín ngày không trả sẽ sình bụng mà chết. Chả dán lá bùa trên cây gòn đầu xóm, báo hại mấy đứa chăn trâu không dám đi ngang. Của mất không thấy trả lại, nhà thằng chả bị trộm lần nữa, lần này nó lấy bộ chưn đèn trên bàn thờ, chỉ chừa lại bát nhang. Không thấy thằng nào sình bụng chết, chỉ thấy cây gòn có dán bùa không biết sao nó chết queo. Lỗ Ban gì, lỗ hang thì có. Tôi lấy cớ Tư Em xỉn rồi, xin kiếu đưa Tư Em về... dọc đường Tư Em cứ lảm nhảm "Con người sống phải biết Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín, phải hôn thầy Năm?" Tôi biết khi Tư Em nói tới đó là biết y sắp tiêu. Tư Em mạnh rượu hơn tôi nhiều, chỉ vì thiên bôi thiểu mà lần nào cũng chìm xuồng. Hôm sau, Bảy Lượm khăn đóng áo dài đi qua lại trước nhà Tư Em chưởi: - đ.m. mày Tư Em, tao chưởi mày như vầy là tao chưởi có văn hóa, ăn mặc đàng hoàng mà chưởi, không phải như mày không có văn hóa, ở trần quần xà lỏn nói xấu tao... Cây gòn chết là nó tới số nó chết, thằng nào ăn trộm nhà tao, không chết trước thì cũng chết sau. đ.m. mày Tư Em, có thằng nào không chết, có thằng nào chết mà bụng không sình lên... Tư Em trong nhà, vẫn còn xỉn, nói vọng ra "Con người sống phải biết Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín" Thế đó, đã gần cuối thế kỷ hai mươi. mà người dân trong Xóm Cầu Ngang của tôi cũng còn mang đủ gần hết những cái tốt và xấu từ thời mới tụ dân lập ấp. kho truyen sex THẾ GIỚI SEX

Xóm Cô Chí

kho truyen sex Xóm Cô Chí Tác giả: Mùa Thứ Năm Chuyện sau đây hoàn toàn là lời của ba tôi từ cuốn nhật ký của ông. Tôi đã xin và được phép viết lại thành văn xuôi. Gia đình tôi bây giờ chuyển tới Đà Nẵng sinh sống. Lúc trước quê tôi ở Huế, hay còn xa hơn Huế nữa cơ, tôi không biết chỗ đó bây giờ gọi là gì, vì lúc tôi ra đi, nó vẫn chưa được đặt tên. Tôi chỉ quen miệng và gọi đó là xóm cô Chí. Nguyên nhân chúng tôi hay gọi như thế bắt nguồn từ tên của một cô giáo. Tôi đã từng học cô giáo đó. Cô Chi. Vùng quê nghèo lam lũ có rất ít giáo viên. Hầu hết những giáo viên ra trường đều xin được làm việc trên thành phố, không thì cũng xin dạy ở chỗ nào đỡ cực một tí cũng tốt. Cái xóm nghèo đến bần cùng khố rách quê tôi thì chả ai dại gì xin tới dạy. Dẫu có muốn đến thì cũng chẳng ai biết chỗ mà chỉ đến. Mà nói nào ngay, làm gì có trường để mà dạy… Bà con xung quanh đã góp tiền, góp gạo, chính quyền địa phương cũng thương lắm, cố gắng tạo điều kiện để xây cho tụi con nít chúng tôi một cái trường nhỏ. Nhưng cái thời đó, đất nước đã nghèo, quê chúng tôi còn nghèo hơn. Cố lắm cũng chỉ trích ra cỡ gần trăm đồng bạc. Mấy ông xã lớn thuê người xây một cái nhà gạch gần sát dưới cái đồi hoang, đóng bàn đóng ghế, lắp một cái bảng tự tác, thế là cũng được một cái trường. Không ai đặt tên cho ngôi trường, người lớn nghĩ không cần, bọn trẻ chúng tôi lúc đó cũng chẳng biết nghĩ ra cái tên nào hay hay để đặt. Thành ra, cứ thế mà đến học. Nhưng xây được trường rồi thì giáo viên ở đâu ra? Đáng lẽ có một ông giáo già đã hứa đến dạy, nhưng mà chưa kịp xây xong trường thì ông đã đột ngột qua đời. Vậy là sau khi thành lập, trường bị bỏ hoang một thời gian, cho đến khi tôi được mười tuổi rưỡi. Bọn trẻ chúng tôi thèm đi học ghê gớm, lúc nào cũng mó tay mó chân, làm hết việc này đến việc kia, đứa nào xấp xỉ cỡ tuổi tôi cũng mong được cấp sách đến trường. Khi hay tin cái trường xây xong, chúng tôi mừng rơn. Tôi nhớ có cái thằng Ba nhà hàng xóm cứ rỉ tai tôi miết, lúc nào cũng thúc tôi chạy tạt qua trường nghía thử vài cái. Trời đất cái thằng! Trường học mà nó làm như đồ triển lãm không bằng, đến là khổ. Nhưng mà tôi cũng thế chứ có hơn gì nó, tôi cũng thèm được “nghía” cái trường một phát. Ngày nào cũng phải nghía thì mới ăn cơm ngon được. Ghê thế cơ chứ! Vậy là chúng tôi thấp thỏm chờ được người lớn gọi đi học. Nhưng mà ngày này qua ngày khác, chúng tôi đợi như mèo đợi chuột, đợi đến mức cái cổ muốn dài ra như cổ cò…Vậy mà chẳng thấy ai bảo đi học cả. Rồi đến một đêm, mẹ tôi bảo có cô giáo đó về xóm mình dạy học, tôi sướng ơi là sướng, rốt cục thì cũng được đi học, sướng! Trong tâm trí tôi, cô giáo đẹp ghê lắm, hoặc là phải có gì lạ lắm. Tại vì gọi là “cô giáo” nên cái người dạy học đó buộc phải là cô gái. Tôi đinh ninh là thế. Nhưng sang ngày mai đi học thì tôi mới chưng hửng, hóa ra “cô giáo” là một bà dì già cỡ mẹ tôi. Trời đất, vậy mà tôi cứ nghĩ cô giáo thì phải trẻ ghê lắm chứ. Hôm bữa đó đi học, ngoài tôi ra còn có hơn chục đứa. Cô giáo tự giới thiệu tên cô là Chi, Nguyễn Thị Chi. Có đứa nghe lộn, bảo là trên đầu cô có chí thì đưa con bắt cho, gì chứ bắt chí con rành nhất. Cô cười bảo không phải, mà tên của cô là Chi. Thế là cả lớp cười ầm lên. Vài bữa sau nghe mẹ tôi kể, tôi mới biết, cô đây là nhà giáo giỏi ở trên phố lớn, tình nguyện về đây dạy. Mẹ tôi lúc đó cứ thắc mắc mãi. Tại sao cô đó là nhà giáo đạt danh hiệu giỏi mà tự dưng đòi đến đây dạy cho khổ thân không biết? Mẹ tôi không hiểu, tôi còn không hiểu hơn. Nhưng mà thôi, miễn sao là được đi học, kệ hết! Cô Chi dạy cho bọn tôi học rất là vui. Cả cô lẫn trò đều nhiệt tình. Cô bắt đầu chỉ từng cái. Tôi thấy mấy cái chữ với mấy con số cái thì tròn, cái thì dẹt, chả hiểu gì hết. Ấy vậy mà tôi cũng ráng thuộc. Cô Chi dạy rồi ở hẳn luôn trong xóm, cô không có chồng cũng chẳng có con cái. Ban ngày cô dạy, ban đêm cô ghép bàn lại làm giường nằm ngủ. Hồi đó, thỉnh thoảng chúng tôi cũng hay tạt qua “nhà” cô chơi. Mẹ chúng tôi thường gởi cái này, cái kia cho cô, nhiều nhất là trái cây, hoặc bánh tráng. Ba tôi bảo cô tội, cho gì cũng nhận. Chắc là tại nhà quê tôi thiếu thốn dữ quá, cô ăn cho quên sầu. Thế là có trường, có cô. Nhưng mà để đi học cũng không phải dễ. Mình đi học thì ai đi làm, hồi đó chả ai dám coi thường con nít bọn tôi, nhiều khi con nít làm còn kinh hơn người lớn. Bọn chúng tôi muốn lắm nhưng mà cứ phải làm việc liên tục, rảnh rỗi mới đến được trường. Cô Chi cứ bảo chúng tôi nên coi trọng việc học hơn. Học mới quan trọng, còn mấy việc khác đã có người lớn lo. Vậy mà có đứa ngô nghê hỏi cô “thế người lớn kiếm ra người lớn ăn, bọn em không làm lấy gì bỏ bụng hở cô?” Cô lúc đó chỉ cười mà không nói, nhưng mà tôi thấy mặt của cô cứ buồn buồn. Công nhận cô giáo khác hẳn người dân quê tôi. Khuôn mặt lúc nào cũng biểu lộ cảm xúc, còn tôi chỉ thấy mấy người xung quanh cứ nhắm mắt nhăn răng mà làm miết, chả buồn, chả khóc bao giờ. Dần dần, tôi cũng học được khá nhiều chữ nghĩa. Tôi bắt đầu biết viết, biết đọc. Nhưng mà cái mớ chữ đó cứ quay mòng mòng trong đầu. Tôi có cảm tưởng, lúc mà tôi đi hốt trấu ấy, mạnh chữ nào trốn được là chúng rủ nhau trốn hết khỏi đầu tôi. Trong đám bạn, chắc tôi là đứa chậm chạp và ngu độn nhất. Nhiều khi dạy mãi mà tôi vẫn chẳng thuộc được chữ. Cô Chi hay khỏ vài cái hoặc nhéo mấy nhéo vào tai tôi. Nhưng mà mặc cho cô quánh hay nhéo, tôi cũng chả nhớ thêm được gì. Cô Chí dành phần lớn thời gian ở trường học. Nói thẳng ra là cái chòi có cái bảng và mấy cái bàn. Cô cứ ngồi trong cái bàn đó mà chờ học sinh tới. Thấy có đứa nào tất tảo ôm giấy tới là cô mừng quýnh. Cái thời tôi học chả cần thời khóa biểu, rảnh giờ nào là học giờ đấy. Cô Chi thì cứ ngồi sẵn đó, trên cái bàn đầu tiên mà dòm qua cửa sổ. Trông cô lúc thấy chúng tôi còn vui hơn lúc chúng tôi thấy vàng. Công nhận cô lớn tuổi mà còn khỏe phết, cô xin ông xóm trưởng mượn hẳn miếng đất trước trường. Chắc tại cô ngồi chờ hoài, buồn quá nên kiếm việc gì làm cho đỡ rảnh. Cô hỏi mượn ba tôi cái cày và ít hạt giống. Tôi hỏi cô định làm gì, cô bảo cô muốn trồng khoai cho chúng tôi ăn. Vừa nghe được ăn là tôi sướng gần chết. Tôi chạy về nhà lấy liền hai cái cuốc, một cái cho cô, một cái cho tôi. Một già một trẻ cùng trồng. Mà dạy học thì cô có thể quánh tôi vì tội chểnh mảng, chứ hổng lẽ tôi quánh lại cô vì cô không vung nổi cái cuốc lên trời? Cô yếu hơn tôi tưởng nhiều, cô chỉ nâng lên một xíu rồi xà cuốc xuống ngay. Tôi nhìn mấy miếng đất cô kéo được mà liên tưởng đến con mèo nhà mình, nó quào nghịch đất sao là cô giáo cào lại y vậy. Chẳng khác tí nào. Nhưng mà cô học rất nhanh, không như tôi, chẳng mấy chốc cô đã biết cách rải hạt giống rồi cày xới đất. Càng làm cô càng khỏe, càng lúc cô càng ra dáng nông dân chuyên nghiệp. Thế là chỉ trong một thời gian ngắn, cô Chí vừa dạy học, vừa trồng khoai để bán. Hình ảnh một bà giáo chân lấm, tay đất tươi cười đầy chất thôn quê dần in đậm vào trí nhớ của tôi. Tôi nhớ rất rõ, có ngày tôi bị một cái gáo dừa phang phải. Đến giờ tôi cũng không nhớ nguyên nhân, nhưng mà sau cái ngày đấy, tôi bị điên điên. Phải công nhận là thế, tôi cứ tưng tửng sao ấy, mẹ tôi dắt tôi đến khám tới bệnh viện xã, nhưng mà họ cứ cho vài viên thuốc, uống vào là xong, không khám gì cho tôi cả. Từ đó, tôi chẳng làm được việc gì nên hồn, người cứ ngu ngu nghê nghê, đụng gì hư đó. Tôi lại còn hay nổi điên, mỗi lần lên cơn y như con chó dại. Tôi lồng lộn và cắn xé đủ thứ, tôi lấy mấy trái bưởi mẹ bán mà quăng xuống đất cho dập hết. Tôi phá như thằng khùng. Tôi quên ngay những gì mình đã làm trước đó. Chỉ nghe mẹ tôi kể lại, đôi mắt tôi lúc đó trợn ngược, giống như mất đi tròng đen, chỉ còn lại tròng trắng. Tay co chân quẹo, quặc mình méo miệng, lưỡi lâu lâu cứ ngứa rồi lè cả ra, tôi giống như một cái gì đó lờm lợm. Cô Chi tới thăm tôi, cô bảo với mẹ cứ cho tôi đi học. Mẹ thấy tôi ở nhà chẳng giúp được việc gì mà còn phá phách hay la ỏm tỏi nữa. Thế là bà đồng ý cho tôi đi học. Vậy là tôi cứ thế mà thoải mái đến lớp, chẳng cần rớ tay làm gì hết. Lúc đầu mẹ và ba tôi còn siêng đến đón tôi về nhà, nhưng sau không biết sao, tôi cứ khoái ở trong lớp. Riết rồi mẹ cũng nhát, lâu lâu bà đem đồ ăn tới cho tôi và cô giáo, còn thì bà bỏ hẳn để đi làm…Tôi gần như sống với cô Chi. Tôi cứ tưng tửng, cô Chi dạy tôi một chập chắc cũng suýt tửng theo tôi luôn. Cô vừa dạy vừa lo cho tôi, cô lo hệt như người mẹ lo cho con trai của mình. Thỉnh thoảng cô còn dạy tôi cách trồng khoai, giống như trước đây tôi đã dạy cho cô. Tôi nhớ một lần, trong trí óc tôi vẫn còn thoáng hiện lên một hình ảnh đầy nước mắt. Một sáng hôm sau tôi hơi tỉnh, nhưng lại thấy mặt cô giáo có vết cắt. Tôi hỏi vì sao nhưng cô không nói. Thì ra tối hôm qua, giữa đêm tôi nổi cơn, tôi cầm cuốc chạy ra sân, phang vào mấy luống khoai chưa mọc. Phá cho chúng hư, cho thỏa mãn cơn điên của bản thân tôi. Giống như cái cảm giác ngứa, đúng, phải nói thế. Và tôi muốn làm sao cho hết ngứa, cho đã, vậy là tôi làm mọi thứ, tôi lật bàn, tôi lật ghế, tôi nổi khùng và cầm cuốc phang khắp mọi nơi. Cô Chi cố ngăn tôi lại, và căn cứ vào vết thương trên má cô, có lẽ tôi đã làm cái điều kinh khủng đấy… Nước mắt tôi chỉ ực trào ra khi tôi hơi tỉnh, tôi ngắc ngứ cái đầu khi mà cô Chi cố an ủi tôi. Chính cô là nạn nhân mà lại đi an ủi kẻ hung thủ. Tôi chán chường và thậm chí có lúc muốn chết quách đi. Cô Chi đã vả cho tôi một cái khi nghe tôi nói ra điều đó. Cái tát ấy làm tôi xẩm hẳn cả người, cô bảo: “nếu con chết, cô cũng chết” Giờ tôi biết cô nói thế để hù tôi, nhưng lúc đó tôi cứ nghĩ cô sẽ làm thật. Ánh mắt của cô làm tôi tin cô dám. Và điều đó, tôi không muốn. Tôi bắt đầu tập kìm nén cơn điên của mình. Ngày nào cô cũng dạy cho tôi một chút, một chút. Từng chút một. Thế là tôi cũng qua đi. Mấy hồi thư giản không học hành, tôi phụ cô gieo giống hay làm cái gì đấy vui vui. Tôi và cô trò chuyện miết, cô cứ cố khơi chuyện cho tôi nói, tôi nói nhiều đến mức tôi quên mất tôi là kẻ tưng tửng. Tôi bắt đầu trải qua ít cơn điên hơn, thoải mái và khỏe hơn. Tôi và cô giáo bắt đầu vượt qua những ngày tháng đau khổ. Ba mẹ tôi thấy tôi bớt khùng, họ cũng mừng lắm. Hàng xóm cũng vui lây, ngày nào cũng bồi dưỡng cho tôi và cô giáo vài ly nước hay cái gì đó ngon ngon. Bọn bạn làm tôi vui, nhưng mà tôi vui nhất khi ngày nào cũng thấy cô Chi. Tôi dần thấy mình học cũng giỏi hơn, cô giáo dạy cho tôi nhiều thứ…Một lần, ủy ban trên thành phố ghé xóm, họ biết hoàn cảnh của tôi và quyết định chu cấp cho tôi lên phố chữa bệnh và ăn học. Cơ hội đến nhưng tôi không muốn đi, tôi không muốn xa quê, xa ba mẹ và xa cô Chi. Nhưng chính cô đã thúc đẩy, cô tạo mọi động lực để tôi cố gắng. Tôi quyết định đi lên thành phố chữa bệnh. Căn bệnh của tôi bắt đầu được cái y sĩ, thuốc men điều trị. Nhưng tôi nghĩ, liều thuốc giúp tôi nhiều nhất, chính là tình thương của cô Chí… Bây giờ ba tôi có hẳn một gia đình gồm vợ và hai con. Tôi hiếm khi về quê, về cái xóm cô Chí đó nữa. Ba tôi nói ông sợ. Cả ông bà ngoại lẫn cô Chi đều đã qua đời trên cái mảnh đất ấy. Ba buồn lắm, ba chỉ sợ khi mà về rồi, thấy chúng sẽ càng buồn hơn. Ba chỉ bảo khi nào ba chết đi, ba sẽ xin được đem xác về quê chôn. Ba đã nói với tôi như vậy đấy. Chúng tôi nói ông gàn, nhưng mà thây kệ chúng tôi, ông muốn chôn ở cái xóm ấy, cái xóm cô Chí. kho truyen sex THẾ GIỚI SEX

Xóm Đạo

kho truyen sex Xóm Đạo Tác giả: Nguyễn Cường Andy Thằng Sơn khệ nệ bưng thùng ngòi pháo dài thậm thượt vào sân trong. Nó cẩn thận đặt chiếc thùng gỗ xuống nền xi măng, xếp lại mấy bó ngòi cho thẳng tắp để chốc nữa, bốn tay thợ nhà nghề bên xứ Trung-Bắc sẽ sang cắt những cuộn ngòi thành những sợi ngắn bằng que tăm cho bọn thợ đàn bà kết thành bánh pháo. Nó gọi to để ông Quý bố nó trong nhà nghe thấy : - Ðám ngòi hãy còn ẩm mà giời sắp mưa rồi bố ơi ! Bố nó, một người đàn ông mình trần, hai bàn tay đỏ phẩm, tóc dính nhũ bạc phếch, miệng ăn trầu bỏm bẻm từ trong nhà bước ra, rút chiếc quạt nan dắt đầu hồi, đến ngồi xuống chiếc ghế đẩu để dưới gốc cây tu-ma quạt phành phạch, nhả bã trầu cầm tay rồi trả lời : - Hơi ẩm thế là được. Khô quá đem cắt chỉ tổ dễ xì. Rồi quay vào trong nhà, ông cao giọng sai vợ : - Bu nó ơi ! Ra ngoài ngã tư chợ ghé vào hàng ông Tiến-Thịnh mua cho tao cái đùi thịt chó luộc, một nồi dựa mận với lại ít bánh đa nướng. Bảo nó cho đẫy lá mơ với rau răm vào. Ðám thằng Lăng xứ Trung-Bắc chiều nay sang hộ mình cắt ngòi đấy ! Có tiếng mẹ thằng Sơn “vâng ạ” vang lên một cách mau mắn và ngoan ngoãn, rồi có dáng một người đàn bà cắp rổ đội nón thăn thoắt đi ra đầu ngõ. Khu Hà Châu nổi tiếng khắp vùng Sài-Gòn Gia-Ðịnh trong nghề làm pháo. Làng Hà Châu ngoài Bắc di cư cả vào trong này, lập lại nghiệp cũ trong khu xóm vùng ngoại ô thành phố miền Nam cùng với hơn chục ngàn dân định cư trên vùng đất mới. Nghề làm pháo đòi hỏi nhiều kinh nghiệm gia truyền và sự khéo léo trong việc pha chế, pháo mới nổ dòn, nổ tan xác. Ðó là chưa kể những nguy hiểm rủi ro như xì cháy ngòi, nổ khuôn. Thuốc pháo dễ phát cháy gấp nhiều lần thuốc súng. Chỉ cần một đụng chạm nhẹ là có thể “bắt” ngaỵ Do đó, vào khuôn là một thao tác quan trọng nhất. Trong khu Hà Châu, công việc này chỉ được giao cho ông Quý bố thằng Sơn. Ông là người từ tốn, khéo tay, đã làm công việc hiểm nghèo này từ mười mấy năm nay không việc gì sất. Nhưng mỗi lần vào khuôn, ông Quý vẫn cẩn thận ra ngoài đền thánh lần ba chuỗi tràng hạt, sấp mình ăn năn tội và bỏ tiền gấp đôi hơn thường lệ vào thùng quyên góp ở đầu nhà thờ. Ông thường bảo : - Mình đã mang phải cái nghiệp dĩ sinh nghề, dâng thêm dăm chục tiền nến hoa cho chắc bụng ! Và ông cảm thấy vững tâm hơn. Cả vùng này, không phải chỉ mình ông biết vào khuôn. Những xứ đạo khác như Tử Ðình, Thái Bình hay Lạng Sơn cũng có nhiều người cả gan dám đảm nhận cái công đoạn thập tử nhất sinh này, và cũng đã vài người tử nghiệp. Biết trước thế nào được, Chúa gọi ai người ấy dạ, ông hay bảo thế. Nhưng ông chỉ biết mỗi nghề làm pháo. Bỏ nghề này ra, hai vợ chồng ông chỉ còn có nước trở lại nghề làm rượu lậu. Rượu đã bị cấm sản xuất từ thời ông Diệm mới lên cầm quyền được ít năm, nhưng vài nơi ở Xóm-Mới vẫn còn lén lút nấu trộm. Ông Quý không thích nấu rượu. Rượu chè là thứ làm hư đốn con người đi, ông nghĩ thế. Cực kỳ ngoan đạo, làm ông trùm của xứ Hoàng-Mai, ông không thể chỉ vì sinh kế hay muốn làm giầu mà lại góp phần vào việc làm hư con người ta được. Vì ngoài vấn đề nan giải là mai sau lên thiên đàng “liệu giả nhời với các thánh ra làm sao”, ông còn muốn để phúc đức cho con cái, nhất là cho đứa con gái đầu lòng, để nó mai sau còn kiếm được người chồng tử tế. Ở khu này, chẳng hiểu đất đai có dớp quỉ quái gì, mà từ ngày vào Nam lũ con gái ở đây dù đẹp đẽ ngoan ngoãn nết na thế nào, hễ đến tuổi lấy chồng là không chóng thì muộn, cũng sinh ra muôn vàn giống tội. Những tai bay vạ gió ở đâu không biết, cứ tấp nập kéo đến cho con gái khu Hà Châu một cách phũ phàng. Nhẹ lắm thì cũng là ế chồng vĩnh viễn như ba chị em cô Lê, cô Lý, cô Lài. Vừa vừa thì cũng là vớ phải thằng chồng vũ phu say rượu trốn quân dịch, suốt ngày bị đòn huỳnh huỵch như chị Thắm ăn đòn anh chồng tên Thiết một cách vô cùng thắm thiết. Còn nặng ra, thì lỡ dại hư hỏng một đời, tỉ như cô Kiều con bà Lý Ðính bán mắm tép ngoài chợ, đang yên đang lành chẳng biết ăn phải thứ gì đột nhiên cái bụng phình tướng lên như cái trống treo, làm bà Lý Ðính sau đó phải từ con và mang đứa cháu không cha dọn về Cái-Sắn, còn cô Kiều bơ vơ không nơi nương tựa đành lên ngã ba An-Nhơn kiếm cơm độ nhật. Ôi ! Kể sao cho hết những trường hợp đau thương của tuyệt đại đa số chị em ta trong cái khu xóm gồm khoảng trăm nóc gia chỉ sống đời hiền hòa đạo nghĩa. Nói tóm lại, đường chồng con của phụ nữ khu Hà Châu sau di cư không mấy chi sáng sủa. Có cô đổ lỗi cho số hồng nhan bạc phước, còn các chị thuộc những gia đình sản xuất pháo thì cho đó là tai nạn nghề nghiệp : - Làm cái nghề này, tay với chân lúc nào cũng không đen nhẻm thuốc ngòi thì cũng đỏ quạch vì thuốc vỏ, còn đẹp đẽ vào đâu nữa mà hòng có người để mắt đến... Ông Quý đã nghe nhiều tiếng xầm xì ở các xứ khác nói về xóm đạo của ông. Tiếng lành đồn xa, tiếng rữ đồn ba ngày đường. Ai cũng bảo khu ông ở không có “đất”. Mỗi khi nghe các xứ khác bàn đến chuyện này, ông thường nổi cáu : - Ðất với đai cái gì ! Chúng tôi cũng sớm tối cầu nguyện như các ông. Dễ thường xứ các ông toàn con cái nước thiên đàng còn chúng tôi rặt giống Giu-Rêu chắc ? Ông cương quyết không để con ông rơi vào số phận hẩm hiu của nhiều phụ nữ ở đâỵ Vĩnh, con gái lớn ông Quý vẻ người xinh, với đôi mắt tròn đen lay láy, cái miệng hay cười chúm chím. Nàng biết mình dễ nhìn, vì bọn thanh niên đến đây làm công cho xưởng pháo thường lân la chuyện trò chọc ghẹo. Nhưng Vĩnh chẳng để ý ai. Tuy chỉ học hết lớp nhất trường công, nàng đã đọc gần hết số tiểu thuyết cho thuê ở tiệm sách Ðức-Tín. Các mối tình thơ mộng trong những truyện của bà Tùng-Long hoặc ông Xuân-Hiệp đều được Vĩnh nghiền ngẫm và mơ mộng. Những nhân vật khuê các trong truyện, những chàng trai công tử hào hoa đất Sài-Gòn, con nhà giàu, có trình độ của tiểu thuyết phòng the hồi đó đã ăn sâu vào trái tim non của người thiếu nữ có tiếng mặn mòi duyên dáng. Vĩnh tuy hay cười để đáp trả lại mỗi khi nghe lời tán tỉnh gần xa của đám con trai Xóm-Mới, nhưng trong thâm tâm, nàng chỉ xem họ như những người bạn cùng lớn lên từ thuở ấu thơ, cùng vui đùa nghịch ngợm dưới những tàn cây tu-ma xum xuê đầy bóng mát. Như anh chàng Lăng ở xứ Trung-Bắc, chốc nữa sẽ sang đây để cắt ngòi thuê, đã đeo đuổi Vĩnh cả năm nay tuy siêng năng rất được lòng ông Quý - và cả cánh họ hàng nhà nàng trong vùng Xóm-Mới - nhưng Vĩnh không mảy may rung động trước cặp mắt thiết tha, dáng dấp ngượng nghịu, hai má nóng bừng của Lăng mỗi khi chạm mặt nàng. Lăng cắt ngòi khéo nhất vùng. Mũi dao của chàng thoăn thoắt lướt trên từng bó ngòi ngọt sớt, làm rơi xuống từng đoạn ngòi pháo đều tăm tắp như sung rụng. Chàng còn là tay thợ kéo quả thành thạo khỏi chệ Bàn kéo quả làm bằng gỗ bằng lăng nặng chĩu đè lên quả pháo bằng giấy bồi vê chặt, được người thợ kéo dùng sức của đôi cánh tay gân guốc miết xuống để làm cho nó dồn càng thật cứng hơn nữa. Vì nếu không chặt, pháo sẽ nổ không đanh. Khi Lăng kéo quả, người ta thường trầm trồ ngắm Lăng, khen ngợi sức khỏe của chàng biểu lộ qua những thớ gân, những bắp thịt chắc nịch nổi lên từ hai cánh tay trần lấm tấm mồ hôi và bộ ngực nổi vồng theo từng nhịp kéọ Ai nhìn cũng tấm tắc khen : - Pháo Xóm-Mới, quả nào của thằng Lăng kéo, sờ vào là biết ngay. Có người lại bảo : - Ðã thạo nghề lại hiền lành tốt nết, đứa nào vớ được nó đứa ấy phúc tổ bẩy mươi đời... Lăng làm thợ pháo được bốn năm nay. Cứ tháng tháng, chàng lại sang nhà ông Quý, hộ ông ít việc. Tiền công ông trả Lăng cũng hậu hơn các cánh thợ khác. Nhưng mục đích chính của chàng là để được trông thấy bóng Vĩnh trong sân. Chàng lâng lâng nhìn Vĩnh tha thướt mang cơm với nước chè nụ cho đám thợ; con mắt đen nhánh có đuôi kia với hàm răng trắng hay nhoẻn cười với mọi người trong xưởng; chứ không chỉ với Lăng. Lăng cũng chẳng bao giờ nghĩ Vĩnh để ý gì đến mình. Vì trong giọng nói cái nhìn của nàng con gái xinh nhà ông Quý, chàng chưa hề đọc được một điều gì thầm kín, như trao gửi chút ý nghĩ riêng tư; hay một lời xa xôi mang niềm hứa hẹn. Vĩnh cứ nhởn nhơ qua lại giữa đám thợ con trai, đối đáp dòn tan với những lời chọc ghẹo, và chẳng hề tỏ vẻ thẹn thò hay cuống quít với một ai. Bọn thợ con trai cũng chỉ biết nàng còn đang kén chọn, và anh thợ khéo nhất của mười hai xứ đạo Xóm-Mới là Lăng chắc sẽ là người mà gia đình ông Quý để mắt đến đầu tiên khi Vĩnh chọn chồng, chứ chẳng tới lượt họ. Nhưng họ cũng không lấy làm ghen tị. Vì Lăng cũng là người được bạn bè yêu mến bởi là thợ cả, tốt bụng, chuyên dậy nghề cho các anh em mới tập. Họ thường hay bảo nhau : - Kháu như con bé Vĩnh thì nơi này chỉ có thằng Lăng là xứng. Còn sểnh đi đâu được nữa... Chúng nó lấy nhau xong là ông Quý cho ngay cái xưởng pháo. Tao mà nói sai thì tao sa đáy hỏa ngục. Không khéo mai đây bọn mình đâm ra làm công cho vợ chồng chúng nó chứ chẳng đùa ! Và mọi người cứ tin chắc là việc Lăng làm rể nhà ông Quý chỉ là vấn đề thời gian. Cắt mấy lát giềng tươi bỏ vào đĩa muối ớt, ông Quý khề khà cầm cái chai mầu xanh đậm rót vào bốn cái chén quân một thứ nước mầu nâu trong vắt : - Rượu lễ của cha Tịnh mang về từ Nha Trang đấy. Ngài cho tôi với ông quản Hói mỗi người một chai, bảo là uống cho khoẻ. Rượu này nhẹ lắm, mà lại đã được ban phúc lành rồi, nên anh em nào có thanh sạch thì mới nên uống. Còn như vướng mắc thì tôi có mấy chai xá-xị, chứ chẳng nên uống rượu cha Tịnh vào mà phải tội trọng. Bốn đứa con trai nhìn nhau giây lát. Thằng Phan ghé tai Lăng nói thầm thì : - Mày có uống thì uống, còn ba thằng tao không sạch sẽ mấy, mới viếng An-Nhơn tuần trước, chưa xưng tội xưng lỗi gì cả. Chúng tao “nhẩm” xá-xị. Lăng đằng hắng một cái rồi trịnh trọng : - Mấy đứa này hôm nay kiêng rượu. Chỉ có hai bác cháu mình thôi. Bữa tiệc diễn ra thật vui vẻ. Ông Quý ngà ngà say, cắn một miếng giềng, ực một hớp linh tửu, khề khà kể mãi những chuyện ngoài Bắc, chuyện đấu tố, chuyện chạy loạn, chuyện lên tàu há mồm di cư vào Nam. Ðám trẻ vâng dạ luôn miệng, hai đĩa đùi cầy tơ và nồi rựa mận cạn dần. Lăng ngây ngất nhìn theo dáng tha thướt của Vĩnh đi lên đi xuống lấy thêm cơm thêm thức ăn, mỗi lần nhìn cái miệng chúm chím của nàng, Lăng thấy một niềm rạo rực khôn tả. Ông Quý ngắm nghía Lăng, thấy thằng thanh niên trước mặt cũng mang nhiều nét giống ông thời còn trẻ : cũng chất phác, thật thà, hay lam hay làm và đạo đức. Ông âu yếm nhìn con gái, và tin rằng may ra cái dớp của xóm Hà Châu khu Hoàng-Mai chắc cũng phải kiềng mặt gia đình nhà ông. - Kìa, ăn nữa đi cậu Lăng ! Tiếng dục dã của ông Quý làm Lăng giật mình. Chàng quay lại, bắt gặp đôi mắt ông như soi rõ tâm can giản dị của chàng. Lăng lảng chuyện : - Gớm ! Ðám ngòi của bác ai se khéo quá ? Không to không bé cứ đều như máy ấy. Cháu có cắt đến tối cũng không biết mệt. Ông Quý cười tươi : - Thì chỉ có con bé Vĩnh chứ còn ai vào đâỵ Cái gì chứ cái se ngòi nhà tôi không có thuê ai bao giờ. Công đoạn quan trọng bậc nhất mà lỵ! Mẹ nó truyền lại đấỵ Rồi ông hạ giọng xuống xa gần : - Vợ chồng cùng giỏi một nghề là muôn đời no ấm. Như tôi với bà ấy, các cậu xem, tay trắng từ ngày vào Nam, mà bây giờ có nên cơ nghiệp. Cậu Lăng giỏi nhất thợ pháo ở đây, kiếm lấy đứa nào kha khá, con nhà đạo đức, làm ăn cùng nghề là sau này sung sướng lấy thân... Lăng như có trống làng tưng bừng trong bụng. Câu nói của ông Quý rõ ràng mở cho chàng một lối bước vào gia đình của ông. Chàng run run khẽ đáp : - Cháu cũng chỉ mong thế... Ba thằng bạn của Lăng nhìn nhau rồi nhìn xuống bếp, nơi Vĩnh đang thập thò, mỉm cười như thầm bảo nhau : - Tao đã đoán mà. Con nhà Lăng sắp “ve” được con bé Vĩnh nhà ông Quý. Tối đến, Lăng về nhà lòng phơi phới hân hoan. Chàng lên giường trải chiếu mắc màn đi ngủ, lòng nghĩ đến vẻ yêu kiều của Vĩnh. Khuôn mặt trái soan và đôi mắt lá dăm của nàng như vẫn còn cười chúm chím với Lăng. Chàng tưởng tượng ra một cái xưởng pháo con con ở gần bờ sông dưới bóng dừa nước xanh lá, có Vĩnh tươi tắn ngồi se những bó ngòi dài thậm thượt, và chàng ngồi kéo quả, lũ trẻ con đứa chạy loăng quăng, đứa oe oe đòi bú. Ôi! Còn thứ hạnh phúc nào hơn. Lăng thiếp đi trong giấc mộng, nụ cười vẫn còn đọng trên môị Từ hôm ấy, Lăng càng chăm sang bên Hà-Châu giúp ông Quý cắt ngòi, se quả. Hầu như chẳng ngày nào không có mặt Lăng bên sân pháo nhà ông Quý. Tình yêu trong Lăng ngày thêm nồng nàn, mối tình đầu đời của chàng thanh niên vừa lớn. Lăng hay nói hay cười hơn trước, cái sân vườn tu-ma rợp mát là chỗ chàng tận hưởng những ngày vuị Hình như Vĩnh có nghe loáng thoáng câu chuyện giữa ông bà Quý về Lăng, nên bây giờ nàng không còn tự nhiên mỗi khi gặp Lăng nữa. Chắc Vĩnh cũng mến mình, Lăng tự nhủ. Ðôi lúc nghỉ tay, chàng kéo mảnh khăn lau mồ hôi dựa lưng vào gốc tu-ma, khoan khoái hồi hộp hình dung ra một ban đêm nào đó, dưới gốc cây hoa đại ở chân đền đức mẹ, chàng sẽ hẹn Vĩnh ra để cầu nguyện. Hương thơm hoa đại ngọt ngào tỏa lan khắp phíạ Bầu trời đen thẫm lấm tấm đầy sao Vĩnh sẽ bảo : - Lăng cầu trước đi. Chàng sẽ quỳ xuống chân tượng đức mẹ trắng tinh tay cầm bó hoa huệ, miệng lẩm nhẩm : - Lạy thánh mẫu đồng trinh rất nhân từ xưa nay chớ từng nghe có kẻ nào chạy đến cùng mẹ xin bầu chúa cứu giúp mà đức mẹ từ bỏ chẳng nhậm lời. Xin người cho con được lấy Vĩnh. Vĩnh sẽ đỏ hồng đôi má : - Tưởng Lăng đọc kinh. Hóa ra chỉ nói hiêu nói vượn. Chàng được thể say sưa tấn công tới tấp : - Vĩnh... Vĩnh có biết là tôi thương Vĩnh từ lâu rồi không ? Từ ngày chúng mình còn học lớp nhất trường công. Hôm nào tan trường tôi cũng đi theo sau Vĩnh cho đến cổng ngõ Hà Châu... Chàng còn muốn nói nữa nhưng Vĩnh sẽ ngăn lại : - Ðừng nói nữạ Vĩnh biết lòng Lăng rồi. Và chàng lại mỉm cười một mình khi tưởng tượng ra chuyện thần tiên ấy. Rảnh rỗi phút nào, chàng chỉ chơi với thằng Sơn em trai của Vĩnh. Thằng bé thích Lăng lắm. Vì không những Lăng khéo kể chuyện đời xưa như Tây Du Ký hay Phong Thần, chàng còn giỏi làm đồ chơi cho trẻ con. Từ làm lồng đèn Trung Thu cả đèn xếp lẫn đèn kéo quân, cho đến đẽo quay, làm diều Lăng đều thành thạo. Chiếc đèn kéo quân tết Trung Thu năm ấy của thằng Sơn sáng rực nến treo dưới cành cây tu-ma giữa sân, các hình voi, ngựa, tầu bay, tầu bo,ø lính tráng... chầm chậm quay mãi làm lũ trẻ con trong xóm bâu quanh ngắm nghía thèm rỏ rãị Một đứa gạ thằng Sơn : - Mày xin anh Lăng làm hộ tao một cái nhá! Hay cho tao mượn chơi cái đèn của mày một ngày thôi rồi tao trả ngay Thằng Sơn trề môi : - Nói dễ nghe nhỉ ! Thằng bé kia vẫn van nài : - Tao cho mày con cá xiêm chọi vô địch xóm nhà thờ, mày chịu không ? Sơn vẫn không chịu Nó đòi thêm những thứ khác. Sau cùng thì chúng nó cũng ngã giá. Ngoài con cá chọi, Sơn còn được một cái diều và sáu hòn bi ve bóng loáng mới tinh. Lăng mỉm cười khi thấy thằng Sơn dặn dò thằng bé kia : - Nhớ nhé! Cẩn thận không có làm cháy đèn của anh Lăng tao làm cho tao thì cả nhà mày bị dịch đòn gánh, ngã trôi sông với lại chết thương hàn. Chờ thằng bé kia cầm chiếc lồng đèn đi khuất, Lăng vẫy Sơn lại gần. Chàng nhìn thằng em Vĩnh, nét nhang nhác giống chị ở cái miệng hay cười làm Lăng thấy vui vui. Lăng gãi đầu suy nghĩ một lúc, cố tìm cách làm thế nào dò la về Vĩnh. Nhưng thằng bé ngớ ngẩn quá, chỉ biết ham chơi, chẳng để ý gì. Chàng hỏi thế nào nó cũng chỉ biết quanh đi quẩn lại mỗi một câu chán phèo : - Chị Vĩnh hay bảo bu là anh Lăng kéo giỏị Thấm thoát đã gần tết. Pháo Hà-Châu sản xuất không kịp cho khách Sài-Gòn xuống lấy. Các xe cam-nhông hàng tuần lũ lượt kéo xuống Xóm-Mới để cất hàng. Họ xuống đây và tưởng lạc vào một thế giới của miền Bắc chưa pha trộn. Thổ âm đặc thù của các vùng Nam Ðịnh, Thái Bình vẫn còn nguyên vẹn. Bánh trôi, bánh chay, bong bóng heo đựng rượu, thịt chó quạt chả... vẫn y nguyên. Không mấy tuần mà lại không có rước; kiệu, pháo, kèn trống rợp trời. Pháo bán đầy đường, dân Xóm-Mới cần cù làm pháo bán cho toàn quốc. Bọn thợ trẻ như bọn Lăng bận trối chết. Bây giờ chàng chỉ làm cho ông Quý. Chàng làm từ tảng sáng cho đến khi mặt trời lặn. Tuy mệt nhoài, Lăng vẫn mong được mỗi ngày nhìn thấy khuôn mặt trăng rằm của Vĩnh với đôi mắt lá răm với ánh mắt đùa nghịch như trước, nhưng sao lúc này Vĩnh lạnh lùng hẳn ra. Nàng cũng ít đem cơm nước cho thợ. Ðến bữa ăn, ai nấy tự động đi lấy phần trong bếp bà Quý. Hôm trước, Vĩnh đi chợ về, Lăng mới để ý Vĩnh bắt đầu biết vẽ mặt. Những hộp phấn con con, những lọ mầu xanh đỏ không biết Vĩnh đào đâu ra, được nàng cất kỹ trong một cái hộp cẩn xà cừ, chiều nào cũng thấy nàng ngồi mở ra và xoa lên mặt. Xoa xong, Vĩnh đội chiếc nón che nghiêng, đi ra cổng, cố tránh cho khỏi bước ngang chỗ Lăng ngồi kéo quả. Ngày nào, chàng cũng chỉ thấy dáng nàng ẩn hiện thấp thoáng trong nhà, chải đầu, trang điểm mặc những bộ cánh sặc sỡ lên người rồi vụt mất tăm. Lăng đâm buồn bã. Chàng cố kéo cho xong cối pháo, tâm hồn để đâu đâu không buồn truyện trò với bọn thằng Phan thằng Lĩnh. Lĩnh tinh ý nhất bọn thợ con trai. Nó ngừng tay kéo, hạ thấp giọng : - Ðừng lo màỵ Cái Vĩnh diện bởi vì biết mày hay ngắm nó. Chứ nó có diện cho ai ngắm đâu mà lo ? Nhưng lời thằng Lĩnh không có gì đáng tin tưởng. Vì mấy hôm sau, thằng Phan báo cho chàng hay là nó trông thấy một người thanh niên dáng dấp ra vẻ dân thành thị, đến cổng xóm Hà Châu đón Vĩnh lên xe Vespa phóng vù đi về hướng Sài-Gòn. Nghe xong, Lăng lặng người đi, buồn bã suốt cã một buổi chiều. Chàng định tìm Vĩnh để hỏi cho ra lẽ. Nhưng suy đi nghĩ lại, chàng lại thôi vì thấy mình chẳng có quyền gì để hỏi. Chiều ba mươi tết, xưởng pháo đã nghỉ. Lăng mang cặp bánh chưng, con gà mái dầu đến Tết nhà ông Quý. Vừa bước đến đầu cửa, đã nghe thấy tiếng quát của ông Quý : - Ai cho mày đi với thằng ấy hở con kia ? Có tiếng khóc nức nở của Vĩnh : - Thầy tha cho con trót dạị.. Tại thầy bắt con lấy thằng Lăng, con đã bảo với thầy bu là con không chịu mà thầy bu không nghe nên con phải tìm người khác... Nghe tới đây, Lăng choáng váng cả mặt mày. Chàng gắng dựa lưng vào bức tường hông chậu hoa vạn thọ. Lại có tiếng gầm của ông Quý : - Mày quen với nó ở đâu ? Ðã làm những gì với nó ? - Con quen anh ấy ở mục tìm bạn bốn phương trong báo Chính Luận... Con tưởng anh ấy có bằng đại học, ở Sài Gòn thì tức là con nhà tử tế... Ai ngờ đâu lại là phường khốn nạn lưu manh đểu giả... - Bây giờ tao ăn nói với xóm giềng ra làm sao ? Ăn nói với cha Tấn ra làm sao ? Rồi ông chuyển thành giọng ai oán như một bài ngắm mười bốn sự thương khó : - Giơơơờời ơi ! Xin ngài cất cho con chén đắng này. Con gái ơi là con ơi ! Cái dớp xóm Hà-Châu tưởng đã hết cũng không tha nhà này. Thằng cha Cựu bên Tân-Hưng nói thế mà đúng. Xứ mình không có đất... Ông vật người xuống chiếc cánh phản, giẫy tê tê, giọng càng thê thiết hơn : - Thế là con hỏng rồi, con ơi ! Cơm không ăn, lại đi ăn ... Lăng chỉ nghe được đến đấy. Chàng lảo đảo bước đi, hai cái bánh chưng nằm chỏng gọng trên thềm, con gà mái dầu còn bị cột chân nhẩy ngã lăn kềnh, kêu oang oác. kho truyen sex THẾ GIỚI SEX

Xóm Gà

kho truyen sex Xóm Gà Tác giả: Đỗ Thành Tàu Saigon phải đến khoảng 4 giờ sáng mới về tới ga, nhưng xóm thì rậm rịch thức suốt. Những người có ăn chịu với đoàn tàu như nghề ba gác, bốc vác, bán thức ăn cho khách đi tàu hay dân đón lõng ém hàng cho tay buôn tàu chuyến thức chờ tàu đã đành, đằng này cả những người chẳng có chút liên quan gì đoàn tàu cũng thức dài cả người. Tiếng động chẳng bao giờ dứt. Máy hát, đài, TV, tiếng thìa khua, tiếng nói chuyện, ồn ồn suốt buổi, nhà nào cũng tranh mở to hết cỡ để át giọng nhau, có khi cũng chẳng ai xem nhưng cứ mở để đó, ý chừng khoe của. Trẻ con đùa vui chí chóe, chơi chán thì đánh nhau, nhà này bênh con chửi thóa mạ nhà khác. Ấy vậy sang bữa sau là chúng quên tuốt, cứ như chó với mèo, bọn nít giận lẫy nhưng chúng không bỏ nhau nổi, các bà má cũng đành lơ vì “ nếu cấm thì tụi nó biết chơi với ai “. Dân xóm làm đủ nghề, người chạy chợ, người bán buôn theo đoàn tàu, người nhận chân dấu hàng kiêm luôn di chuyển đến nơi đã hẹn cho khách kiếm chút tiền công, đều tập trung hết về đây. Một số khác đi làm công nhân nhà máy sợi, xoay vần theo ca, mấy giờ đứng máy về mệt bã người, cũng không ngủ nghê gì được, nên người nào người ấy gầy như con mắm, kháo nhau : “ lên xe ngủ xật xừ, đã luôn “. Xóm ga nào cũng vậy, dân tứ chiếng giang hồ kéo về rất đông. Họ sống bằng đủ thứ nghề, hợp pháp có, bất hợp pháp có, thậm chí kể cả nghề bán trôn nuôi miệng. Ban ngày ban mặt, trông cái xóm loe hoe, nhưng tối đến lỉnh ca lỉnh kỉnh đủ thứ chuyện Có nhà mở cái quán nho nhỏ ngay tại chỗ, khách đến uống đấu láo lia chia, bán giáp vòng ngày này sang ngày tháng không nghỉ. Bán từ con khô mực tới dĩa củ kiệu, xen dăm chai bia làm lậu, hay thứ rượu “ ông già chống gây “. Mấy tay con Ngọc hoàng biết mười mươi thứ rượu này có pha Mytox để chất nước thiệt trong và dậy mùi quyến rũ. Họ thường kháo nhau “ uống vô có ngày lủng ruột “ mà có cha nào chừa nổi. Mấy cha ngồi lai rai, tán phét đủ thứ, không “ dzô, dzô “ thì cũng “ lì một lam” cho tới khi quắc cần câu, nằm ăn vạ tại chỗ, hoặc lết mãi mới tới nhà. Vợ con mè nheo riết thét cũng thua. Các bà lo dấu tiền để còn lo nuôi bầy con đẻ năm một, nhưng mấy cha lưu linh nào có kể, về lần lưng lận túi không có là đánh đập mạnh tay. Cái ông tổ tưởng đến mệt vì đi phân xử ba cái chuyện tào lao suốt ngày. Hòa giải, khuyên can, cha nào cũng ừ ừ gật gù xin nghe, nhưng ổng vừa bước ra khỏi ngõ thì đã nghe hự hự, người chồng đập chị vợ “ tại sao mày dám đi mét chả “. Tội nhứt là cái nhà ga với mấy tay công an đường sắt, công an khu vực. Dân mượn lối tắt qua lại đã đành, còn phóng uế tùm lum suốt từ đầu ghi đến cuối bãi, học tập kiểm điểm thì thầy đổ bóng, bóng đổ thầy, bù trớt. Lại nữa, địa bàn nằm giữa hai ba phường nên chả ai có trách nhiệm thiệt sự rõ ràng, dân dễ đổ hô cho nhau để chạy tội. Ngày đầu tiên, gia đình tôi nhập về làm dân xóm ga, tôi tưởng là không ở lâu nổi. Gì mà đời sống bê tha quá, người ta chích choác đành rành, mua bán thuốc hít tự nhiên như là món hàng hợp pháp. Bởi khi tôi tốt nghiệp trường cải tạo về thì nhà cửa không còn gì hết, bà xã mằn mò tìm ra được cái xó ở sau ga, nên tôi theo chưn nàng về đây. Cuộc đời tôi bây giờ thuộc về xã hội quản lý, vợ con giáo dục nên bả dắt đâu tôi theo đó cho yên việc. Nhưng bọn nhóc không ưng vậy, tụi trầm trồ chọc má nó : cha, má giờ làm lớn, chỉ huy ba rụp rụp, dìa đây coi bộ phẻ nhe. Muốn du lịch, thót lên tàu là đi liền. Hồi đó, mua được cái vé tàu trầy da tróc vẩy, công nhân viên đi công tác còn chờ dài cả cổ. Vậy mà đám “ cò “ trong xóm can thiệp là xong ngay, muốn hạng nào cũng có, muốn toa nào cũng xong. Dân bộ đội về phép hay mấy tay trốn vợ đi công tác với bồ muốn cho xong nên bỏ thêm tí tiền đi cho nhanh, kẻo dây dưa bà cả ra nắm đầu thì khốn. Thành ra dân xóm luôn có đồng ra đồng vào để nướng vô rượu chè, bài bạc hay chích phê cho đã. Thấy căn nhà nằm sát đường tàu, cái mái gianh thập thò ló ra ngoài, tôi đã nghĩ bữa nào con tàu hơi lắc lư chắc cũng làm sạt đi một mảng, thế nhưng giữa chuyện ở lùi xùi này so với sự đi kinh tế mới thì chắc là nơi đây vẫn thần tiên hơn. Tuy vậy, tôi cũng phải đe nẹt bọn nhỏ : tụi bay có chơi ráng mà lẩn quẩn trong nhà, đừng rượt nhau thọt ra ngoài, lỡ tàu trờ tới cán thì uổng mạng, chớ hổng đền ai được. Bà xã nghe tôi phán như đọc lệnh hành quân nên túm tím cười khen : ông cũng còn ra dáng chỉ huy đó chớ. Về đây thất nghiệp ăn bám vợ, tôi nhột nhạt vô cùng. Mấy lần xách đơn ra phường chứng nhận để đi xin việc đều được nói khéo là chú mới dìa, nghỉ đã, lo chi vội. Tối nằm, tàu qua cà xịch cà xạc, tôi rúc vô bà xã để đưa kiến nghị ra làm chân ba gác, bả tưởng tôi rọ rẹ nọ kia, nên đuổi xua nguây nguẩy, chừng thấy tôi lỏn lẻn yêu cầu thì bả đâm thương mới chết. Bả tình tứ ôm đầu tóc tôi xoa như xoa trẻ rồi hạ giọng xề khuyên tôi đừng chọn nghề đó “ anh làm hổng nổi đâu, cố đạp tới lúc lòi rom ra, tui lại khổ “. Gặp thằng bạn đứng buôn nước bọt đầu chợ, đãi cho tách cà phê rồi òn ỉ rủ rê : cậu về nói bà xã rồi ra đây đứng với tớ. Ai mua gì mình chạy, bán chuyền tay kiếm tí tiền còm, cũng hay lắm. Tôi lại về tỉ tê với má sắp nhỏ, nhưng bả không nghe. Bà la : chèn ơi, anh không thấy trên ga họ yết bảng tùm lum mấy tay phe phẩy đứng chợ. Họ làm như tội phạm ăn cướp không bằng, bắt đeo bảng họ tên và mang số như tù, chắc anh cũng muốn như vậy hả. Tôi lại thụt ý kiến. Ở nhà lu bù, tay chưn như có kiến bò rần rần khó chịu. Đêm cỡ 4 giờ tàu lại rầm rập chạy qua, nghe lao xao thấy tổ, cà khịa lết vô thì bà xã cứ đừng mà, đừng mà, làm tôi cụt hứng luôn. Giờ giấc tàu thiệt là mắc dịch, thế mới biết các ga khác tàu qua sớm có đâu mà con nít sanh lu bù. Còn ở đây, lũ trẻ đâu mà lúc nhúc như chuột, đẻ thì dữ mà số được cho đến trường thì vắng làm sao. Có một dạo dân xóm ga nháo lên vì lời hăm he sắp ngăn rào không cho người mượn đường qua lại. Ai cũng rì rầm than bọng với trời. Tôi bỗng làm tay “ tiên tri “ khơi khơi, tôi nói với bà xã : má mày sao lo hão, mấy ông hù vậy thôi, chớ tiền đâu mà giăng hàng rào kín cái ga hổng biết. Ló đồng nào mấy tía chia nhau sạch, còn đâu rào với ngăn. Họa may có chờ Mỹ trở qua lại thì mới làm nổi. Nói xong tôi mới thấy hớ. Lỡ tai vách mạch rừng, tay nào nghe được, họ bắt đi học lại thấy tổ. Còn bà vợ thì lấm la lấm lét dòm tới dòm lui, bịt chặt miệng tôi lại, khuyên can : ông đừng ra đường thấy điều chướng tai gai mắt mà nói năng bất tử, bộ ông chưa tởn hả. Tôi nghe cũng bắt ớn, nhuệ khí đâu bay tiêu dên hết trọi. Nhưng mà cũng mặc cảm chớ bộ, làm thân nam nhi mà cứ trông vào vợ kiếm tiền thì còn ra thể thống gì. Cũng may bả nhanh chưn khéo tay nên lọt luồn chưa hề bị ai hăm he, chớ không, chắc cảnh nhà tang thương dữ. Bọn nhóc ngày một lớn dần. Thằng nào cũng ê a vài chữ là nghỉ ở nhà. Vì hết tiền học phí, lại phải đóng góp xây dựng trường, xây dựng lớp, rôi cả ngày lang thang làm kế hoạch nhỏ đi lượm ve chai, giấy vụn, lon nhựa, ni lông, để gom đem nộp lớp, má nó chạy hết nổi nên cho quách ở nhà, tôi lãnh cái chân thày dạy thế. Sách không có, vở thì không, cha con ngồi phệt luôn xuống nền đất trong nhà, dùng cái que vẽ chữ mà truyền bá cho nhau chút kiến thức nghèo nàn. Dân xóm ga tiếng là bặm trợn, nhưng có ở gần mới hay cũng có nhiều tấm lòng vàng. Có lần tôi nghe kể mấy tay chôm chỉa nói chuyện với nhau, đứa thì khoe mới tha cho một bà đi nuôi chồng cải tạo mà bất nhơn ngồi thu lu chỗ vắng. Hắn định khoắng mớ tay nải của bả, nhưng bất ngờ nghe bà than tình cảnh chồng, nên hắn lại ân cần chỉ bà ra chỗ sáng để tránh bị trấn lột. Một tay khác ráo hoảnh khoe gặp một chị đi buôn, hắn đến gạ khuân vác hàng cho chị, chị không ưng. Nó ghét đã định khoắng sạch một mẻ cho tởn. Nhưng rồi chị thở ngắn than dài là mấy ngày rồi chưa về tới nhà, hổng rõ bọn nhỏ sống ra sao. Hắn bỗng ra tay nghĩa hiệp vác hộ hàng lên toa miễn phí, còn chúc chị đi đường bình an, thoát được quản lý thị trường. Tôi nghe mà cứ tưởng chuyện trên trời dưới đất, hoặc chuyện cổ tích hồi xưa. Có sống ở xóm ga mới thấy hết bề trái bề phải, chớ hồi còn ở ngoài cứ nghe tới hai chữ xóm đề pô xe kửa là thun vai rụt cánh. Sau này có cơ hội được đi định cư nước ngoài, đôi khi sực nhớ thời gian ở xóm cũ, tôi thấy lẫn lộn những tình cảm bâng khuâng. Mong một ngày nào được về thăm lại chốn xưa để xem căn nhà tôi ở giờ thế nào. Nhất là để tìm hiểu xem con người ở vùng xóm ga ai còn ai mất, liệu có nhặt nhạnh thêm được một vài hình ảnh đẹp nào nữa chăng ? Thật tình mà nói, bến xe, bến cảng hay vòng quanh địa bàn ga nơi nào cũng vậy, dù là ở nước văn minh, vẫn có những tay bắt địa hoặc trộm vặt như nhau. Thế nhưng gọi được là một nơi đầy đủ màu sắc, hĩ nộ ái ố, xen giặm vừa sự nhẫn tâm lẫn lòng hào hiệp thì chắc không đâu bằng mảnh đất xóm ga ở nước mình. Có thể tôi quá chủ quan, nhưng chắc chắn là chưa có nơi nao mà sự đổi đời chóng vánh và tàn nhẫn đến vậy. Nó xới tung lên tất cả mọi nếp sống của con người, ông hóa thằng, thằng hóa ông, bát nháo, lộn xộn, vỡ tung hết thảy. Sau này tôi có nghe loáng thoáng người ta dọn dẹp nhiều, nhưng tôi tin không bao giờ chấm dứt hết cuộc sống như những ngày tôi đã ở. Dường như con người đã bị dìm xuống tận cùng tần số thì họ hết còn biết sợ nữa. Họ coi nhẹ mạng sống họ, thản nhiên đi vào sự luông tuồng vì họ nghĩ trước sau gì cũng chết, thành ra mới coi thường và phí phạm thể xác như không. Nghĩ như vậy, tôi càng ước được một lần trở về, hòa mình vào với xóm ga chẳng còn ranh giới giữa năm tháng, hoặc ban ngày ban đêm gì cả. Nhất là được nằm lại một đêm bên đường tàu chờ chuyến xe 4 giờ sáng để nhớ xem mình đã làm gì, nghĩ gì. kho truyen sex THẾ GIỚI SEX

Xóm Nghèo

kho truyen sex Xóm Nghèo Tác giả: Ái Khanh Bé Đoàn quặt tay sau lưng vịn chân, chân còn lại nhảy lò cò quanh chiếc sập gụ. Bà Hoạt đang dùng khăn ẩm lau sạch những ngọn lá chuối, sắp chồng lên nhau, chuẩn bị cho ngày mai đem ra chợ bán. Nghe con nhảy đùng đùng bà gắt lên: - Nè! Mầy có ngưng không? Nhảy, nhảy té lòi họng bây giờ. Bà vừa dứt câu thì... y như rằng, thằng bé té huỵch xuống đất. Bà thảng thốt quăng cái khăn chạy bương ra đỡ thằng bé lên. Thấy nó không hề hấn gì, bà nỗi giận đập bôm bốp vào lưng nó: - Nè! Nè! Đã nói rồi mà không nghe! Phá gì mà phá còn hơn quỷ nữa. Đã té mất hồn chưa kịp khóc nhỏng nhẻo, lại bị mẹ khện cho hai khện vào lưng đau điếng nhưng bé Đoàn chẳng dám thút thít tiếng nào, len lén đến ngồi trên ghế, chống tay vào bàn. Bà Hoạt la lên: - Còn ngồi đó nữa hả? Lo đi tắm rửa rồi ăn cơm đi! Nó ngoan ngoãn đi vào trong lấy quần áo ra sau tắm rửa. lúc trở lại đã thấy chị Hương ngồi phụ với mẹ xếp lá chuối. Có lẽ mẹ đã kể cho chị Hương nghe chuyện lúc nãy hay sao nên chị cứ nhìn nó cười cười. Nó đến bàn thấy bịch ni lông, mở ra thấy hộp bánh Trung Thu, reo lên quên chuyện vừa rồi: - A! Bữa nay Trung Thu, có bánh nữa ngon quá ta! Nó mở hộp bánh ra nhìn: hai cái bánh nướng vàng rọm hấp dẫn, hai cái bánh dẻo trắng tinh thấy thèm nhỏ dải. Nó đưa tay sờ lên mặt bánh, chưa kịp hỏi gì chị Hương đã bảo: - Đừng có đụng vào! Chị mua để cho bác Bảy cuối xóm đó! Đoàn tiu nghỉu. Nhớ lại hai tuần trước nó bị kinh phong sùi bọt mép, mẹ đi bán chưa về chị Hương luýnh quýnh khi thấy nó run bần bật, hai tay giật giật quíu vào nhau, chị vừa khóc vừa chạy ra đường kêu cứu. May sao bác Bảy đi ngang qua, chạy vào cạo gió, giật tóc mai cứu sống nó. Tối lại, mẹ nó về nghe chuyện qua nhà cám ơn ông Bảy... Hôm nay Trung Thu, đây là dịp để gia đình cám ơn bác ấy cứu mạng Đoàn. Sẵn cây viết chì nằm trên bàn, nó đưa cây viết viết nắn nót vào nắp hộp: “của bác Bảy” như ngụ ý cám ơn riêng với bác rồi chuẩn bị đậy lại, chưa kịp làm chị Hương đã giật cái nắp hộp đậy lên bảo: - Thôi cưng ráng nhịn, bữa nào chị có việc làm chị mua bánh kẹo gì cho em ăn. Cái nầy mắc lắm để dành tạ ơn người ta. Bé Đoàn thẫn thờ nhìn theo tay chị bỏ hộp bánh vào bao ni lông và nhanh nhẩu bước ra khỏi nhà. Nó tựa cửa nhìn theo. Trong xóm đã có một đám con nít đang tụ tập xách lồng đèn, nó nhìn ra thèm thuồng. Bỗng bà Hoạt gọi giật nó: - Đoàn! Vô phụ má cái này! Những bó lá chuối gói gọn gàng bà đã sắp sẵn hẳn vào đôi gióng. Bà bảo nó đè mạnh những xấp lá chuối xuống để bà bỏ thêm một vài xấp nữa. Phụ mẹ xong thì chị Hương cũng về tới. Bà Hoạt phụ con gái dọn cơm ra ăn... Sau khi Hương cho quà về, bà Bảy mở hộp bánh ra nhìn. Bà cũng thấy thèm, nhưng bà lại nhớ đến vợ chồng ông bà Thụ y tá kế bên cạnh nhà. Tháng trước, đi thăm thằng con trai bà đang học tập tận Bù Đăng, Bù Đốp, bà không có đồng xu dính túi, vợ chồng bà bàn bạc suốt đêm. Ông Bảy đạp xe ba gác, mướn chiếc xe suốt cả tháng lo đóng tiền thuê xe có lúc phải đi vay mượn thêm; bà thì bán xôi chỉ lời được bữa ăn hằng ngày. Cuối cùng, túng thế quá sáng hôm sau hỏi mượn vợ chồng bà Thụ một ít tiền đi thăm nuôi. Kết quả thật bất ngờ: cả hai ông bà vui vẻ cho mượn đúng số tiền ông bà hỏi không những vậy mà còn chạy vào lấy luôn một gói đường nửa ký ra gửi cho thằng Vĩnh làm quà nữa. Ông bà Bảy rưng rưng cảm động hứa có ngày đền đáp... Bà Bảy đậy nắp hộp lại nuốt ực nước miếng, nhủ thầm lát nữa hỏi ý kiến chồng xem sao! Chưa đầy mười phút sau, Ông Bảy vào nhà mặt mày cau có, bà lên tiếng: - Bữa nay có kiếm được gì không ông? - Thiệt xui hết chỗ nói. Gặp thằng cán bộ bảo chở cho nó cái tủ lạnh tới đường Trần Hưng Đạo, đem vô nhà cho nó nó trả cho được 15 đồng. Ai ngờ nhà nó tuốt lầu sáu, vác được cái tủ lạnh lên lầu mệt đứt hơi cho nó, ra cái xe ba gác bị tháo mất cái bánh xe sau... - Vậy là lỗ? - Thì chứ còn gì nữa? Hỏi vậy mà cũng hỏi. Phải mượn của chủ thêm một trăm hai bữa nào có trả. Đáp xong ông tới nằm phè ra giường thở dốc. Bỗng ông nhìn trật qua bàn và hỏi: - Gói gì ở trên bàn vậy bà? - Hộp bánh Trung Thu của bà Hoạt cuối xóm cho đó. - Bánh Trung Thu? Chà! Bả sang dữ vậy? Mà bà nhận của người ta làm gì? Người ta đã nghèo “sặc gạch” mà còn lấy của người ta làm gì! - Thì tui nhất định không nhận nhưng cô Hương cổ năn nỉ nhận coi như trả ơn vụ tui cứu thằng Đoàn hôm nọ đó mà! Ông Bảy thở dài: - Thiệt! Sao mà ai cũng khổ quá! Cái xã hội gì đâu mà chẳng có một người sung sướng! Bà Bảy chưa kịp hỏi về việc giải quyết hộp bánh thế nào thì ông Bảy nhổm dậy: - Nè bà! Bà đừng ăn nghe. Nhịn thèm đi, đem qua biếu cho ông bà Thụ đi. Bà miễn cưỡng: - Ừ thì tui cũng định bàn với ông vậy mà! Bên ngoài đường đã tối, đàn trẻ con bắt đầu nối đuôi rước đèn... Bài hát được đồng loạt cất lên: Tết Trung Thu đốt đèn đi chơi. Em đốt đèn đi khắp phố phường. Đèn xanh xanh với đèn tím tím... Em đốt đèn dạo khắp cung trăng... Ông bà Bảy nhìn ra ngoài mỗi người mang một ý nghĩ. Bà bảo: - Thôi ông tắm rửa đi! Tui đem hộp bánh qua biếu ông bà Thụ rồi về liền. Bà tất tưởi chụp hộp bánh bước ra khỏi nhà. Ông nhìn theo vợ ngậm ngùi. Lâu rồi những chất dinh dưỡng cả hai không còn dám nghĩ tới. Kiếm ăn từng bữa dư đồng nào dành dụm chờ ngày thăm nuôi Vĩnh, thằng con trai duy nhất, bất hạnh lấy phải con vợ không ra gì. Vĩnh đi học tập chưa đầy hai năm, con vợ nó đã cuốn gói theo người khác. Bà Bảy bước vô nhà gặp lúc ông bà Thụ đang ngồi múc những muỗng thuốc bột từ một hộp lớn bỏ qua những mảnh giấy cắt sẵn. Bà Thụ đon đả: - Mời bà ngồi chơi! Rồi nhìn bịch ni lông trên tay bà Bảy như dò hỏi. Bà Bảy nghiêng người chào ông Thụ và bảo: - Bữa nay Trung Thu, biếu ông bà hộp bánh ăn chơi lấy thảo. Bà Thụ tiếp bao ni lông và bảo: - Bà bày đặt quá! Chỗ xóm giềng với nhau cả mà. Bà Bảy chào ra về ngay vì trời cũng đã tối, bà về lo cơm nước cho chồng. Ông bà Thụ cám ơn rồi tiễn khách ra cửa. Ông đậy nắp hộp thuốc Equinol lại, gói nốt hai gói thuốc còn lại và bảo: - Gói ít đủ bán vài ngày thôi. Gói nhiều quá thuốc ẩm hết. Nghề chích dạo và bán thuốc cảm cúm không cần toa bác sĩ của ông coi vậy mà sống được. Nghe tiếng trẻ con hát hò ngoài sân, ông bà nhìn nhau nao nao nhớ lại thủa ấu thời của mình. Bà thở dài bảo: - Bữa nay Trung Thu rồi! Coi vậy mà tui với ông có đời sống cũng tương đối so với dân trong xóm. Hồi sáng đi chợ tui có mua hai cái bánh để lát khuya ăn bánh uống trà với ông cho vui. Bây giờ bà Bảy lại biếu thêm một hộp, tui nghĩ có lẽ mình đem biếu người khác đi ông ạ! Ông Thụ tán đồng ngay ý kiến vợ và ông nhắc với vợ về cô Hương - thư ký đánh máy của xã - vừa bị sa thải vì bắt gặp “chị nuôi” ở trong cơ quan sau khi phân phối thịt cho nhân viên đã cột sẵn dây chuối, để lúc về có tên ai nấy nhận, chị dùng dao thẻo bớt mỗi xâu thịt một miếng đựng đầy túi ni lông. Chị Hương ức lòng nên phản đối. Chỉ tuần lễ sau là bị xã trưởng gọi lên cho thôi việc lý do... dư thừa nhân viên, quỹ tiền tệ lại bị giới hạn. Ai cũng biết chị oan ức nhưng “chị nuôi” là vợ bé của tên xã trưởng nên đành ngậm ngùi tiễn chị ra khỏi xã... Ông bà Thụ đồng ý đến thăm chị Hương và biếu chị hộp bánh Trung Thu cũng như để chia sẻ những xót xa không thể nói ra thành lời trong lúc còn sống trong xã hội đầy dẫy bất công này. Trong đêm ấy, sau khi ông bà Thụ từ giã cô Hương ra về thì bé Đoàn nhanh nhẩu đến mở tung bao ni lông ra, miệng láu táu: - Má với chị Hương cho con ăn nha! - Ừa! Bỗng nó la lên: - Ủa! Cái hộp bánh này của chị Hương đem biếu bà Bảy hồi chiều mà. Hương biến sắc: - Sao em biết? - Nè, có chữ của em viết “của bác Bảy” ở bên trong nắp hộp nè! Bà Hoạt, Hương lẫn bé Đoàn nhìn chăm chăm vô hộp bánh Trung Thu với bao thắc mắc lạ lùng... kho truyen sex THẾ GIỚI SEX

Xóm Nghèo Ăn Tết Chó

kho truyen sex Xóm Nghèo Ăn Tết Chó Tác giả: Ngọc Giao Tiếng mụ Một hò buồn rã rượi... Không là con sông Hương, mà là cái ngõ xóm Khâm Thiên. Cho nên tiếng mụ Huế hò lạc lõng, không ai nghe cả, chỉ một mình mụ nghẹ Mụ Một nghe tiếng mụ và tiếng muỗi kêu loạn trong ánh sáng ngọn đèn dầu lạc. Nước ở chiếc áo vá phơi trên sợi dây bắt ngang gian nhà hẹp rỏ từng giọt xuống mặt mụ, mụ vẫn nằm không nhúc nhích. Khói thuốc phiện đang cho mụ saỵ Say rượu thì còn dễ quên sầu hận; chứ thuốc phiện càng say, buồn khổ càng ngấm mạnh vào xương vào máụ Mụ Một say thuốc phiện lần đầụ Xưa kia, lênh đênh ở con sông Hương, đàn vài khúc mà nghe chơi, gặp tri kỷ ép nài khói thuốc, mụ cũng nể mà "tui vô phép" rồi nghiêng mình hút chơi một điếụ - Một điếu thì có hề gì ạ. Mụ nói với người tri kỷ vậy, hai khóe mắt lim dim nhìn lên mui bồng đong đưa trên con sông khuyạ Đêm nay, đôi khóe mắt ấy nhìn lên chiếc áo vá nước rỏ ròng ròng xuống mặt. Mụ thấy cái gì cũng mờ mờ. Mụ thấy cái áo trên kia biến ra cái áo lụa màu mạ non mà ngày xưa mụ ưa mặc nhất. Đã biết bao nhiêu con cá đớp cái bóng ấy in dưới nước dòng sông trong. Đã có biết bao nhiêu chiếc én liệng như đưa thoi ở đầu bồng để dệt, để vương lên cái bóng đẹp ấy những đường tơ tình thắc mắc. Duyên nợ ba sinh, Nghìn dặm lênh đênh... ai nhớ mình... - Dào ôi, cực quả! Mụ Một thở phì phì, hai tay đập rời rã xuống giường. Xưa mụ chỉ hút một điếu mà chơị Cái gì cũng chỉ để mà chơi! Thế mà bây chừ mụ Một hút nhiều, giản dị như mụ ăn trầu, như mụ uống rượu, như mụ đánh bài, nếu mấy chị cô đầu ngoài phố rủ rê, nếu gặp ông hai út, ấy là một ông thày đờn người Bắc, nhưng mà đã có một thời nổi trôi ở Huế để làm đồ đệ hai bậc danh cầm Đội Trác và Ngũ Đạị Gặp ông hai út thì nhất định mụ Một phải say rượu trong khói thuốc. Gái già gặp người tri kỷ già, "đôi chúng mình như hai con đò nát thày ơi, hãy uống với nhau dăm chén, hút với nhau mươi điếu rồi đờn vài khúc mà nghe chơi, ca vài câu mà nghe chơi cho nó vơi sầu, vợi khổ!" ông hai út lên dây cây tì bà. Mụ Một sóng nhịp bằng hai bàn tay yếu, ca theo tiếng đờn. - ôi dào ôi, cực càng thêm cực! Thày út ạ... Mụ Một cúi đầu mà khóc. Người bạn già không biết nói làm sao, bàn tay thõng xuống. Mụ Một ngượng ngùng lau nước mắt, rồi mụ mỉm cười, với cái tiêm dúng vào ngao thuốc phiện. Điếu thuốc xèo xèọ Mụ Một nghĩ thầm rằng khi mụ mếu ắt cái mặt già nhăn nheo của mụ cũng móp mép như điếu thuốc đang nở trên đầu bấc lửa ấy, chứ chỉ Nghĩ vậy thì mụ thẹn. Mụ hò đôi câu, rồi bỏ lửng cho giọng trầm xuống tan đi như tiếng đàn của thày hai út bỏ lửng ở cung hồ. Thày hai út ra về, kiếu rằng xin ra về cho mụ ngủ. Dầu sao mụ cũng đứng lên theo tiễn ông bạn già. Nhưng mụ không dám bước ra ngưỡng cửa, mụ chỉ chắp tay lễ phép vái ông hai cái, rồi vịn tay vào tường, thò đầu ra tý nữa nhìn xem nhà hai bên dãy ngõ có ai nhìn người đàn ông ở cửa mụ ra không. "Phải e dè với cả tấm lòng ngay thẳng của mình, cực quả! Mà mình có chi giăng gió với người ta đâụ Chém cha cái miệng rông dài!.." Mụ nói vậy rồi quay ngay vàọ Mụ lao đao rơi xuống chiếụ Mụ nằm nhìn lên cái áo vá, lắng từng giọt nước lạnh rỏ xuống vầng trán nóng tê tệ.. Mụ hò. Lại hò mà nghe một mình chơị Không ai thèm nghe thì thôi! Mụ chỉ có một mình mình nơi đất khách quê người nàỵ Có con, có cháu, mà rồi chơ vơ một mình trong cái ngõ hẻm Khâm Thiên, người đàn bà Huế không than thở với ai, không trách Giời, trách Phật, buồn khổ quá, mụ chỉ ca đôi tiếng, có tiền thì ra quán uống chơi vài cút rượu, xong rồi mụ lầm lì trở về nhà - ấy là một cái xó bụi bậm và đầy mạng nhện người ta không chứa ô tô nữa, mụ nằm lăn ra, mụ hò vài ba câu như ngày xuân xanh ở kinh kỳ. Con mụ Một là một anh chàng thư ký, có vợ, có đứa con giai bảy tuổị Vợ anh chàng là một chị gái giăng hoa gặp nhau ở đâu, lấy nhau ở chỗ nào, có con rồi thôi thì cũng chả cần nhớ làm chi nữạ Miễn là cứ yêu nhaụ Yêu nhau quá đến nỗi quên rằng trên đời còn có một mẹ già đang đau và đang ghen âm thầm cái "tình mẹ con" của mụ đã bị ả gái giăng hoa, người nàng dâu của mụ, chiếm đoạt mất rồị Người con giai yêu quý có nhìn đến mụ nữa đâụ Huống chi, người nàng dâu, một hôm, lại ton hót với chồng rằng: - Tôi thấy người ta đồn dạo này bà ấy nghiện rượu, nghiện thuốc phiện, đêm nào cũng ca hát với một lão thày đờn. Người con giai tê tái, rình xem một đêm khuyạ Quả nhiên, gã nhìn thấy vậỵ Gã lướt qua mặt mụ, cố ý bật que diêm châm thuốc lá cho mẹ rõ mặt mình, gã cười nhạt rồi gã lao mình ra đị Gã xin đổi ngay vào một tỉnh miền Trung Kỳ, đem cả vợ con theọ Mụ Một khóc sậm sụt liền ba tháng. Nhớ con năm phần, nhớ cháu cả mười phần. Cái thằng bé kháu khỉnh, mập như con ông Bụt. Thỉnh thoảng, trước kia, thằng bé được bố dắt đến ngõ thăm bà, thì nó quấn lấy cổ bà, bà cũng ôm chầm lấy cháu mà hôn: - Cháu bà đấy à? Cháu có nhớ bà không? Chứ bà nhớ thương đến đứt ruột, đứt gan, cháu ạ... Mụ khóc trên tay cháu, rỏ nước mắt xuống bàn tay cháụ Thằng bé không chùi vào áo, nó đưa bàn tay lên môi: - Bà ơi, nước mắt sao mặn thế, a bà? Mụ nheo mắt nhìn cháu, cắn vào má cháu: - Nước mắt và máu đều mặn cả. Thế cháu đã nếm nước mắt của ba cháu chưả Thằng bé ngây ngô: - Chưạ Ba cháu chả bao giờ khóc như bà Mụ ngùi ngùi: - Hôm nào cháu thử bảo ba cháu khóc, rồi cháu nếm xem nước mắt ba có mặn giống nước mắt bà không, cháu ạ. Người con giai nghe mẹ nói, cúi gục đầu nhìn xuống đất. Lần thăm ấy, gã biếu mụ nhiều tiền hơn mọi lần: - ... Để mẹ đong cái gạo trắng mà ăn. Gạo hẩm thế này, nuốt làm sao được. Rồi gã cầm tay mụ, ngập ngừng: - Thôi thì trăm giận nghìn hờn mẹ bỏ đi chọ Mẹ về ở với chúng con. Mẹ lẩn quất thế này, con xấu hổ với người ta, mà cháu thì nó nhớ... Mụ thở dài: - Con ơi, mẹ còn muốn nhìn mặt nó làm chi nữạ Nó lăng loàn, nó có coi mẹ ra gì đâụ Con cứ để mẹ ở đây, ngày nào mẹ chết thì con làm ma cho mẹ. Sau ba năm rồi, con có thương mẹ thì nhớ đem nắm xương khô của mẹ về Huế mà táng ở bên mồ ông ngoại, bà ngoại con dưới chân núi đó... Mụ nghẹn lời, khóc như mưa như gió. Mụ khóc một lúc lâu, vừa ngẩng lên thì nàng dâu mụ đã đứng ngoài đầu ngõ rít răng gọi thằng cháu mụ: - Đi về thằng kiạ Bố mày muốn ở đấy với người ta thì cứ ở. Tao không cần. Người con giai đành lẳng lặng chạy theo đứa bé ra khôi ngõ. Tiếng nàng dâu mụ còn rít róng mãi ngoài đường. Bữa ấy, mụ Một lại ra quán uống đủ ba cút rượụ Mụ lao đao về ngõ; mới bước chân vào cửa đã thấy ông hai út ngồi đợi đấy rồị Như mọi lần ông mang cả khay đèn đến, ông đang sửa bấc, mụ bèn reo lên: - May quá, thày út à. Tui đang buồn, tui đang saỵ Thày ôi, lại gặp cố nhân, thế thì lại đờn vài khúc mà nghe chơi, ca vài câu mà nghe chơi, chớ không gặp thày thì chừ tui đã treo cổ tui lên xà nhà cho rồi kiếp... Thày út chỉ "dạ", lặng đi một lúc mới ngậm ngùi: - Chết chi cho uổng bà bạn ôi! Đời còn vui lắm bà, nếu cứ được vui mãi như thế nàỵ Cả hai người hút xong chừng mươi điếu thuốc, thày út lên dây đờn, dạọ Mụ Một hắng giọng, ngồi lên, đôi mắt ướt mờ, nhìn vào ngọn lửa đèn đăm đăm. Tết đến rồị Kẻ giầu sắm tết. Cái dân xóm nghèo của mụ Một cũng bắt đầu bàn về tết và lo tết. Nắng hoe hoe ấm chảy trên dòng nước cống ngang cửa mụ. Những con muỗi ngày, ở dòng nước cống, bay rỡn nắng, trắng lên như đám bụị Mụ Một ngồi sưởi nắng, ôm con chó vào trong lòng. Con chó vàng của mụ, từ đầu chưa ai biết, vì mụ đã dắt đi cầm cho một mụ chủ cô đầụ Con chó hay bậy, hay cắn khách, đã một lần dám chui vào gậm giường Hồng Kông rình tha áo quần của một ông tham biện nhân tình mụ chủ cô đầu, mụ chủ đánh nó một trận đau rồi đuổi về với mụ Một. Hôm ấy mụ Một ngồi thụp xuống, giang cả hai cánh tay gầy ra đón nó, như những khi đón thằng cháu quý được bố dắt đến thăm mình. Mụ cũng đã khóc trên đầu nó, mụ đã ra ngoài ô mua một mớ xương bò về làm tiệc đãi nó, để tỏ chút tình chút nghĩa với nhaụ Ngày còn đứa cháu ở bên mụ, đứa cháu vẫn là bạn thân của nó. Chúng chơi, chúng nghịch cùng nhau suốt ngàỵ Ngày mụ ra đi, con chó cũng theo đị Mụ lại bầu bạn với nó, để nhìn thấy nó mà được nhớ đến thằng cháu yêụ Thế mà túng bấn quá, mụ đã phải đem cầm cho mụ chủ cô đầụ Bây giờ nó lại trở về, mụ xoa vuốt nó, ngồi lầm lì với nó, hò cho nó nghe trong những ngày mưa dầm gió bấc mà cố nhân của mụ, thày hai út, đi đâu xa vắng. - Bà Một ơi, con vàng độ này béo quá. Giá được nó mà bó giò hay hầm rựa mận chén tết thì thú quá! Bác Năm-răng-bạc đã cười nói oang oang như thế đó. Mụ Một cũng cười: - ừ, tui bán cho anh. Thế đã có tiền chưả Bác Năm-răng-bạc vỗ vào cái túi áo xanh đầy dầu máy, cái túi không có tiếng xu hào, nhưng bác lại càng cười to hơn rồi đi thẳng. - Bà Một ơi, con vàng độ này có vẻ khặc khừ lắm nhé. Để cho chúng tôi, sẵn riềng mẻ ở nhà rồị Chưa có gì chén tết đây, bà ạ. - ừ, tui bán cho bác. Thế đã có tiền chưả Họ đã có tiền. Nghĩa là họ đã loan báo cho cả xóm biết rằng tết này sẽ thưởng xuân bằng con vàng mụ Một. "Con vàng béo lắm, chả cần gì kiêng kị, nghèo thì bất chấp thiên địa sự, bà con ạ!" Họ góp tiền, kéo đến nhà mụ Một. Họ cười vang nhà, đặt tiền xuống chiếụ Rồi họ kéo con vàng rạ Con vàng sợ sệt nằm run nép ở gậm giường. Người ta cứ khua nó rạ Nó cũng gầm gừ kháng cự, nhưng bác Năm-răng-bạc đã đánh trúng một búa vào lưng, nó gục ngay xuống bên chân mụ Một. Nhìn hai mắt con vàng ướt sũng ngước lên nhìn lại mình, trong khi người ta đã buộc dây thừng kéo nó đi xềnh xệch, mụ Một đứt ruột, ôm lấy mặt. Mụ nghĩ đến cái ngày nàng dâu mụ giằng đứa bé cháu yêu khỏi tay mụ, kéo tuồn tuột đị Đôi mắt đen nhánh của nó cũng ướt đầm đìa như đôi mắt con vàng, như đôi mắt mụ. - Dào ôi, tôi nhớ con tui, tui thương cháu tui! Tui biết tìm nơi mô chừ! Chiều ba mươi Tết. Gió lạnh. Gió từ đâu reo trên mái ngóị Mụ Một bứt rứt như điên, mụ đi vào đầu ngõ, lại trở ra cuối ngõ, mụ không chào ai, cũng chẳng nhìn ai cả. Đầu gục xuống, lưng mụ còng xuống, trông thảm hại, thực là thảm hại! Con vàng của mụ cũng đang lồng lộn đòi dứt sợi dây thừng ở trong sân nhà bác Năm-răng-bạc, vì cái nhà cô đầu bên kia đã đốt một bánh pháo cúng tổ chiều ba mươi làm cho nó sợ. Những bánh pháo khác tiếp ran lên. Con vàng cuống cuồng. Sợi dây bợt dần. Sau cùng đứt hẳn. Con vàng cong đuôi chạỵ Nó chạy ra bờ ao, luồn qua các bụị Một đứa trẻ, con bác Năm-răng-bạc thét lên. Dân xóm, ấy là những người nghèo có phần vào con chó, lúc bấy giờ vừa kịp đi làm về, nghe trẻ thét, đều hò nhau vác gậy đuổi con vàng. Một cuộc náo loạn ghê gớm. Không ai thấy bóng con vật xó nàọ Cái xóm nghèo nhớn nhác vì mỗi nhà mất một nồi giả cầy chó thưởng xuân. Họ cãi cọ nhau, trách mắng nhau, rằng sao bác Ba Kim có cũi mà không nhốt, rằng sao chị cả Ca-bánh- cuốn có xích sắt lại không chịu bỏ ra: "ừ xích sắt thì nó chạy đằng giời! Xích sắt còn phải kể..., người còn chịu nữa là giống chó!" ông cả Cao nói thế, rồi bảo nhau kéo cả ra nhà mụ Một. Một người giả vờ tìm guốc để cúi nhòm gậm giường mụ, biết đâu con chó khôn nó chẳng về với chủ. - Các bác ôi, con vàng nó trốn thì tui xin nộp lại tiền các bác. Tui cũng định đi vay thêm để lấy cái vé xe lửa về miền trong đi tìm con tui, cháu tui, chúng nó bạc với tui nhưng mà tui nhớ chúng nó, tui không còn chịu được cảnh chơ vơ này nữạ Bây giờ tui xin trả lại... Vâng, tui xin trả lại các ngườị.., Mụ cúi xuống cho người ta khỏi thấy rằng mụ khóc, mụ mở hòm lấy món tiền giải ra giường. Nhưng mọi người không ai thò tay ra lấy lại tiền. Họ nín lặng nhìn mụ mà ái ngạị Một lúc lâu như thế, bác Năm-răng-bạc mới lên tiếng rằng: - Cảnh đến thế này thì chúng tôi còn lòng nào lấy lại số tiền mọn nữạ Chúng tôi xin biếu bà, tôi lại xin tất cả các ông các bà đây mỗi người thêm một tí đưa bà để bà về quê hương, may ra bà tìm thấy mặt con, mặt cháụ Ai cũng khen bác Năm nói phảị Họ vui vẻ vét túi giúp thêm tiền mụ Một, vui vẻ ai về nhà nấỵ Chiều hôm mồng một, mụ Một đi chào biệt hết cả mọi người trong xóm. Mỗi nhà mừng tuổi mụ một chén rượu đầỵ Mụ không từ chốị Uống vừa vặn say thì mụ lao đao ra phố gọi một cái xe kéo ra ga, đi chuyến tốc hành. Đoàn tầu lao trong bóng tốị Mụ Một co ro rét và say, gục đầu vào cánh cửa toạ Mụ se lòng nghĩ đến con vàng của mụ bây chừ nơi mổ Con vàng lang thang, mụ cũng lang thang một mình. Cô gái làng Sơn Hạ, Nxb. Tân Dân, 1942. kho truyen sex THẾ GIỚI SEX