Thứ Bảy, 5 tháng 1, 2013

Bóng Câu Qua Cửa Sổ 1

lon to Lùi - Tiếp theo >> Trang 1 trong tổng số 2 Bóng Câu Qua Cửa Sổ Tác giả: Thùy Linh Bà nói với anh chàng lái tắc xi lầm lì dừng ở ngã tư thứ nhất. Còn phải qua một ngã tư nữa mới tới đầu phố. Bà lững thững mộng du giữa đám xe máy chạy như thác sầm sập đổ theo các lòng đường. Loay hoay mất hai chặng đèn đỏ bà mới vượt qua ngã tư để sang đầu phố. Bà dừng lại khẽ đẩy cặp kính lên cao, trải ánh mắt dài theo dọc phố. Vẫn là con phố có lòng đường nhỏ và thăm thẳm. Vẫn là bầu trời xám chì bị những tia nắng vàng nhạt xé rách một khoảng tròn như một cái giếng tràn trề ánh sáng. Bầu trời đó, mặt đất này... Bao năm qua dường vẫn còn đây. Như có một sức nóng từ ánh dương chói qua lớp mây xám tạt ngang, khiến bờ mi nóng rực làm làn nước mỏng dâng lên. Trong bóng nước ấy hiện lên một con phố nhỏ buồn heo hút thưa thớt nhà. Dọc hai bên phố là hai hàng bàng. Vào tháng giêng hai búp bàng bắt đầu trổ ra, cuộn tròn như cái kén màu xanh cốm. Phải đợi rét nàng Bân đổ về lá bàng mới từ từ xòe ra hứng những hạt mưa li ti. Những chiếc lá bàng xanh biếc lóng lánh và đầy vẻ khát khao. Sang tháng tư khi nắng mới bừng lên thì tán bàng đã phủ kín lối nhỏ hè đường và xòa cả ra lòng đường. Chớm thu heo may về lá bàng lần lượt rời bỏ để lại đám cành khô khẳng khiu đứng cô lẻ trong mưa phùn gió bấc. Cứ nhìn màu chuyển trên các tán bàng để biết mùa đến mùa đi... Đấy là phố nhỏ của bốn nhăm năm trước. Đây là ký ức của bốn nhăm năm trước đang nhè nhẹ thổi từ miền quá khứ, qua sa mạc khô cằn của sự quên lãng tới tâm khảm bà. Bà đang đặt bước chân đầu tiên lên phố nhỏ rợp bóng bàng của bốn nhăm năm trước, sau khi vượt qua một chặng đường dài gần mười bảy ngàn ngày. Không còn cây bàng nào cả. Thay vào là một loại cây gì đó bà không biết, cây không tên. Những cây như thế này mọc khắp phố phường, thường chẳng có hoa, và tất nhiên không thể kết trái. Các mùa cũng không thể pha màu lên tán lá của nó. Giống cây luôn dửng dưng với thay đổi của trời đất, không tham dự vào buồn vui của con người. Nó sống trọn vẹn một kiếp cây mà không cần hóa thân vào đời sống. Theo thói quen xưa đi dưới tán bàng, bà bước đi thật chậm, như cúi tìm trên mặt hè mòn vẹt bước chân người quả bàng vàng rộm thơm phức. Cái quả bàng quế ấy cắn ngập răng, ngọt lịm. Cắn hết quả bàng trong nỗi thèm thuồng, người ta còn lấy hòn gạch ghè đập cái hạt xơ tướp để lấy cái nhân bên trong bùi như hạt dẻ. Mùi bàng chín từ trong ký ức phả ra thoang thoảng trong heo may. Cây bàng đầu tiên... Phải rồi, cây bàng đầu tiên mọc thẳng, được chừng hai sải tay thì chẽ thành ba nhánh. Cây thứ hai có hai thân sinh đôi. Cây thứ ba giữa thân bỗng bị phình ra như bụng đàn bà chửa... Cây thứ năm, cây thứ bảy... Cây thứ mười, một dạo có chim bạc má về làm tổ. Bà đã phải mất mấy ngày để trông chừng bọn trẻ con phố bên sang phá. Một buổi sáng tỉnh dậy, như có linh tính bà chạy vội từ trong giường ra gốc bàng, tổ chim không còn ở đó nữa. Ngày hôm ấy bà đã khóc rất nhiều khiến ông bác tưởng bà nhớ ba mẹ vừa mới sang Pháp trước đó hai tuần. Cây thứ mười bốn có rất nhiều sâu kèn to như ngón tay út. Bỏ con sâu ra, bóp bẹp một đầu kén là có cái kèn thổi toe toe suốt ngày làm người lớn bực mình. Bà gắn bó với cây bàng thứ mười bốn này hơn cả vì nó đứng ngay trước ngôi nhà bà đã từng ở suốt tám năm trời với ông bác khi ba mẹ bà sang Pháp làm ăn. Hồi mới tới đây bà thường trốn bác trèo hái lá bàng cho bà cụ bán xôi ngồi ở cuối phố mỗi sáng. Giấu lá bàng trong cặp, trước khi tới trường bà rẽ qua góc phố. Bà cụ bán xôi thành quen cứ vào giờ ấy là ngóng về đầu phố. Bà vội vàng đưa nắm lá cho bà cụ rồi đi không kịp nghe lời cảm ơn. Đôi khi bà cụ túm tay kéo lại dúi nắm xôi gói trong lá bàng, khẩn khoản: "Xin cô đừng từ chối, già này không có gì để cám ơn cô, chỉ có chút quà vặt này". Một buổi sáng, sau trận bão đêm hôm trước, lá bàng rụng nhiều vô kể. Bà chạy dọc hè phố nhặt được một túi bàng thật to. Bà vui lắm chạy thẳng đến cuối phố, nhưng bà cụ bán xôi vẫn chưa tới. Bà đứng đợi cho tới khi muộn giờ học và hôm ấy đã bị cô giáo phạt. Tan học bà quay trở lại. Vẫn không thấy bà cụ đâu. Mang túi lá bàng về bà loay hoay giấu ở góc vườn để bác không phát hiện ra. Hôm sau bà kiếm cớ ra khỏi nhà sớm hơn thường lệ. Mái hiên nơi bà cụ bán xôi thường ngồi lặng ngắt. Vài bác kéo xe tay theo thói quen ghé lại ăn xôi sáng trước khi đi làm chưng hửng bỏ đi. Sau đó, sau đó nữa không bao giờ còn thấy lại cái dáng thấp còng còng của bà cụ, bên nách cắp một cái thúng mà từng đống nan óng lên vì hơi tay người, phía trên một lớp vải nâu đã bợt bạt. Tới giờ này bà cụ đã bước vào vùng tối của cuộc đời lâu rồi, lâu lắm rồi. Nhưng bà cụ ra đi vào cái đêm cơn bão lướt nhanh qua thành phố hay mãi sau này thì bà không sao biết được. Mái hiên, bà còng thúng xôi là mành phố nối dài vào nỗi nhớ để về nơi đây thấu suốt cuộc đời bà. Cây bàng thứ mười lăm... Tán cây này xòe rộng như một cái nấm che kín cả vỉa hè, vươn tới bên cổng sắt của ngôi nhà đối diện với nó. Ngôi nhà ấy cũng thân thiết với bà như chính ngôi nhà bà đã từng ở. Bờ tường phía trước mặt giăng kín màu hồng ti gôn. Những dải ti gôn mong manh nhẫn nại bám vào thành tường ngoi lên, vươn kín mái nhà. Những bông hoa phân mỏng rơi lớp lớp xuống rẻo đất nhỏ sát bờ tường. Trong cái nắng hanh hao mùa đông đám hoa lìa cành vẫn còn kịp rực hắt vào chân tường xám rêu phong làm nó anh ánh ửng hồng. Ngôi nhà ấy giờ đây hiển hiện trước mắt bà. Một bức tường cao thô kệch phong kín. Đứng ngoài chỉ thấy chòm mái xám đen nhô lên như một chiếc nón thâm lại vì mưa nắng. Cánh cửa sắt nặng nề tróc sơn nham nhở bưng bít nốt con mắt nhìn ngoài vào. Lùi ra xa một chút sẽ thấy ở sâu trong ngôi nhà có một tán hoàng lan xanh thẫm dâng cao lặng lẽ buông che phần mái hiên. Bà thận trọng đến bên cánh cổng sắt, âm thầm cúi nhìn một bên cánh bị gỉ bong vênh lên, hở một khe nhỏ. Rồi bà âm thầm giơ tay đặt khẽ ngón giữa vào nút chuông màu trắng. Bỗng có một vệt nắng tạt ngang lùm cây, trượt qua vai bà, khoan một lỗ tròn trên cánh cửa sắt. Bờ vai bà ấm ran lên. Ngày xưa, trong chiều nhạt nắng, có một cô gái trẻ, trẻ lắm cũng đứng ở chính chỗ này, hồi hộp nhìn sâu vào trong vườn, nơi có cây hoàng lan, đôi má bị nắng hanh làm ửng đỏ... Tại sao bà nhớ lại hình ảnh đó vào chính lúc này? Hình như thói quen thường nhật làm nhạt phai mọi kỷ niệm, kể cả những kỷ niệm đau đớn nhất. Nhưng kỷ niệm đẹp đẽ nhất lại không nằm trong tâm khảm người ta, như nỗi hoài nhớ của bà về phố xưa này vậy. Nó theo làn mưa xuân giêng hai, cuốn đi trong cơn gió heo may, ủ mình vào trận gió bấc phương bắc tràn về... Và, cứ như con nước theo trăng, mùa đi gửi lại mùa đến, truyền theo năm tháng cuộc đời. Để chiều nay khi bước chân đầu tiên đặt lên mình con phố, heo may bỗng choàng lên bà tấm voan dệt những kỷ niệm xưa. Qua tấm voan ấy, hiện hữu mờ dần đi như đám sương mù, hòn đảo quá khứ bỗng từ từ chồi lên chói lòa. Có tiếng giày nện lộp cộp trên nền xi măng phía trong cánh cửa làm bà bừng tỉnh. Bà lảng đi, làm ra vẻ đang tản bộ. Một thiếu phụ dắt chiếc xe máy từ trong ngôi nhà đi ra. Tiếng thiếu phụ dặn dò với ai đó: - Hai bố con ông ở nhà tự lo bữa chiều. Nếu ngại nấu nướng thì ra ngoài ăn tạm cơm bụi. Tôi bận việc về muộn. Nhớ khóa cổng lại đấy. Ông cứ dán mắt vào ti vi có ngày trộm vào khoắng sạch cho mà xem. Cánh cổng sắt đóng rầm sau lưng. Tiếng xích khóa cọ vào cổng chói gắt. Đột nhiên bà không muốn quay lại nữa và cất bước đi về cuối phố. Bà về đến nhà lúc sẩm tối. Gia đình người cháu bà vẫn đang đợi cơm. - Cô làm cháu lo quá! Lần sau cô muốn đi đâu thì bảo cháu đèo đi. Đường sá bây giờ lộn xộn lắm, đến bọn cháu là thanh niên thế này mà có lúc đi đường còn phát hoảng nữa là. - Cô muốn đi dạo qua mấy phố quen trước đây. - Cô có gặp được người quen không? - Cô chưa tới, hình như họ đi vắng! - Bà nói dối. - Cũng không có gì quan trọng đâu. Hôm khác cô đến cũng được. - Bạn cũ hả cô? Từ hồi sang Pháp đến giờ cô có liên hệ với họ không? - Không! - Bà khẽ lắc đầu. - Thế thì làm sao biết họ còn ở đây. - Cô nghĩ thế! Bần cùng bất đắc dĩ, người ta mới phải rời bỏ ngôi nhà của mình chứ. - Nhưng hơn bốn chục năm rồi! ở thành phố này ít ai sống được trong ngôi nhà của mình ngần ấy thời gian cô ạ! - Cô biết! - Bà trầm ngâm. Sau bữa cơm bà kiếm cớ mệt đi vào trong buồng riêng nghỉ sớm. Bà pha một ấm trà ướp sen và âm thầm độc ẩm. Anh cháu bà tỏ ra là người chu đáo. Biết bà về nước chơi, anh nhờ một bà già quen sao tẩm một mẻ trà đặc biệt đãi người biệt xứ. ủ trà đêm trước, hôm sau mang ra sao. Trà vừa ngấm vị sen lại bắc xuống ủ qua đêm nữa. Rồi lại sao, rồi lại ủ. Vừa đủ ba lượt mới gọi là xong. Vị sen thấm trong hương trà, không phân biệt đâu là hương hoa, đâu là vị mộc mạc của đất trời nữa. Cái vị giòn ngọt thơm thơm đầu lưỡi thấm dần vào cổ họng, lần xuống tận ruột gan, rồi từ tận trong gan ruột, hương vị ấm nồng ngan ngát lại như thấm trở ra khiến người thưởng trà như tỏa hương. "Cả Hà Nội cháu chỉ thấy còn bà cụ này biết sao tẩm trà thôi cô ạ! - Anh cháu bà bảo vậy - Bà cụ cũng chỉ nhận làm giúp người thật thân, mà người ấy phải biết thưởng trà nữa". Thói quen uống trà kiểu này có từ thời ông nội bà. Cách uống của bà cũng cầu kỳ lắm. Buổi tối có một u già chèo thuyền ra hồ sen trong khu vườn nhà, tách từng đóa sen, nhúm một ít trà bỏ vào bên trong rồi gói lại. Sáng sớm hôm sau, khi trên các lá sen còn đẫm sương đêm, u già lại chèo thuyền, lấy trà từ các đóa sen ngậm sương ra. Những cánh trà ẩm ướt, thoang thoảng hương mà không chói gắt. Nước pha trà cũng là nước hứng từ những giọt sương đêm đọng trong các lá sen. Đạo trà của người xưa rút cái tinh nguyện rất đỗi đơn sơ của đất trời nhưng lại cầu kỳ, tỷ mẩn và rất nghiêm cẩn. Không ngờ cháu bà, chắt của một ông tri phủ vẫn còn giữ được phần nào truyền thống này. Bà là con gái út trong gia đình bốn anh em, được cha cưng chiều nhất. Ông cụ có thói quen uống trà vào năm giờ chiều cùng bạn bè để đánh cờ hoặc tán gẫu. Những cuộc như thế bao giờ bà cũng được ngồi bên cha. Thế rồi thói quen thưởng trà ngấm vào bà lúc nào không rõ. Suốt mấy chục năm sống bên Pháp, dù bận rộn đến mấy bà vẫn dành riêng cho mình ít phút uống trà buổi chiều như lưu giữ một truyền thống cũ của gia đình. Có tiếng gõ cửa. Đang nhấp dở ngụm trà chưa kịp lên tiếng thì anh cháu bà chạy vội vào đưa cho bà chiếc điện thoại. - Cô có điện thoại. Bà hơi ngạc nhiên cầm lấy ống nghe. Hai tuần nay từ khi về nước bà chưa hề thông báo cho bạn bè vì muốn dành trọn thời gian cho họ hàng trước đã. Hôm nay là ngày đầu tiên bà định trở về nơi ấy... - Alô, tôi nghe đây! - Bà nói, hương thơm phả vào ống nghe. Đầu dây bên kia im lặng. - Ai đấy, tôi nghe đây mà. - Bà đấy ư? - Giọng đàn ông phía bên đầu dây run run. Lặng đi vài giây ông mới tiếp tục. - Tôi cứ ngỡ không bao giờ bà về đây nữa? - Ông đấy ư? - Đến lượt bà run rẩy. - Sao ông lại nói thế? Sao ông biết tôi về mà gọi tới? - Một người họ hàng của bà nói với tôi. Bà không định gặp bạn bè sao? - Tôi về nước cũng chỉ với ý định ấy thôi mà. Ông vẫn ở chỗ đó chứ? Bà giấu ông việc chiều nay bà đã trở lại nơi ấy nhưng không đủ bình tĩnh bước vào. Ông khẽ cười. Bà thấy tiếng cười của ông già lắm rồi. Già như gấp đôi thời gian xa cách. - Vẫn ngôi nhà đó bà ạ. Năm năm tư bị tịch thu, nhưng sau đó được trả lại một phần ba. Ơn trời, tôi giữ được phần bên trong, cạnh gốc cây hoàng lan. - Cây hoàng lan vẫn còn sao? - Không hiểu sao bà vẫn không dám nói thật với ông là bà đã nhìn thấy nó lúc chiều nay. - Nó già lắm rồi, già đến mức không buồn đơm hoa nữa. Nó biết có đơm hoa cũng chẳng để làm gì mà. Bà chợt thấy mùi hoàng lan trên mái tóc dìu dịu. Bất giác bà đưa tay lên vuốt mái tóc sát vành tai. Một sợi tóc bạc vương trên tay. Bà giơ nó ra trước mắt rồi từ từ thả xuống. Sợi tóc như tan trong khoảng không. - Bà nói gì đi chứ? - Ông giục. - Ông sống thế nào? - Bà bối rối thẹn thùng hỏi. - Ơn trời, tôi sống như mọi người. Còn bà? - Ý tôi là... - Bà bối rối. - Ông bây giờ thế nào rồi? - Tôi ư. - Ông lại khẽ cười. - Tôi ngày trước nếu bà còn nhớ cộng với bốn nhăm năm. Bà có hình dung ra tôi trong hình hài một ông lão không? Nếu không tưởng tượng được thì tôi mừng lắm. - Tôi cũng thế! - Bà khẽ thở dài. Tiếng ông húng hắng ho. Vẫn thế, mỗi khi xúc động ông vẫn thường hay ho húng hắng. Chỉ cần vuốt nhẹ sau lưng vài cái là mọi chuyện lại tốt đẹp. - Ông hãy vuốt ngực đi. - Bà thầm thì. - Bà... vẫn... nhớ ư? - Ông ghìm tiếng ho lại để nói với bà. Chờ cho đến khi nghe tiếng thở đều đều của ông vọng vào ống nghe bà mới tiếp tục. - Hàng bàng dọc hè phố có còn không ông? Bà vẫn muốn nghe từ chính ông nhắc về chút kỷ niệm mà bà đã viết. - Mất rồi! - Giọng ông buồn bã. - Mất từ lâu rồi. - Người ta chặt phá nó ư? - Chẳng ai cả. - Vậy thì tại sao chúng mất đi? - Nắng, mưa, gió bão... và cái thời gian tệ bạc bà ạ. - Ông cười chua chát. - Bà còn nhớ cây thứ mười sáu không? Hồi bà còn ở đây nó đã bị sâu bệnh. Nó là cây đầu tiên bị chặt đi. Sau đó ba bốn cây bị đánh bật gốc vì mấy cơn bão đổ vào thành phố tựa như những quả bom tấn ném xuống. Những cây còn lại bỗng lẻ loi. Người ta đành chặt đi để thay hàng cây khác. Lẻ loi thì khó sống lắm bà ạ! - Cây gì vậy? - Đến bây giờ tôi vẫn chưa biết hàng cây trước nhà là cây gì? Họ lặng đi như mặc niệm. - Bà đang nghĩ gì thế? - Ông lên tiếng trước. - Tôi nghĩ tới con chim bạc má non. - Bà khẽ cười. - Còn ông? - Hồi ấy tôi chỉ dám trèo lên xem, bà đứng dưới làm sao nhìn thấy được? - Ông nói đầy vẻ tự hào. - Bà chỉ được nghe tôi tả lại thôi. - Nhưng tôi tin ông. - Bà này, bà vẫn chưa trả lời câu hỏi của tôi, bà sống thế nào từ bấy đến giờ? Bà quay ra phía ngoài ống nghe thả tiếng thở dài vào khoảng không. - Ở bên ấy chúng tôi sống lẻ loi lắm. Nhưng nếu đã không chết thì vẫn phải sống. "C est la vie"(*) - Bà bỗng bật cười. - Tôi là cây bàng cuối cùng của phố mình còn lại ông ạ! Chắc không lâu nữa cũng sẽ bị bật rễ. - Phải, đã không chết thì dù thế nào cũng phải sống. Sống khó hơn nhiều bà nhỉ!... Bà sẽ đến tôi chơi chứ. - Tất nhiên rồi. Nhưng... - Bà ngập ngừng. - Bà nói đi. - Ông có vẻ hồi hộp. - Ông đừng thất vọng về tôi nhớ? - Bà cười ngượng ngùng. - Ô... Thế ra chỉ có bà đã sống qua bốn nhăm năm thôi ư? Có lẽ tôi còn phải trải qua gấp đôi thời gian ấy vì nhiều lẽ. - Nhưng dù thế nào tôi vẫn là phụ nữ. Thời gian căm thù đàn bà hơn ông ạ! - Rồi bỗng bà bật cười. - Mà sao tôi lại nói với ông chuyện này nhỉ. Chúng ta có còn trẻ nữa đâu. - Trong ta bao giờ cũng có một cái gì đó trẻ mãi. Chính vì điều đó mà chúng ta tồn tại được bà ạ! Bây giờ muộn rồi bà hãy đi nghỉ đi. Hẹn gặp lại sau. Bà ngủ ngon nhé! - Chúc ông ngủ ngon! Bà đặt điện thoại xuống, mỉm cười. ấm trà đã nguội ngắt. Nhưng bà không nhận thấy điều đó, lơ đãng với chén trà nhỏ như một lỗ đáo xu nhấp từng ngụm nho nhỏ. Một chiều bà trở lại trại Hàng Hoa thăm người bạn. Người này cũng một trong số ít những người bạn nhẫn nhục vượt lên trên cơn bão táp cuộc đời dai dẳng đeo bám vào một phần mảnh đất của cha ông để lại. Ngôi nhà ngang ngói ta đầy rêu ngày trước dùng cho gia nhân, giờ đây cũ kỹ già nua đang kiên cường chống chọi với thời gian là nơi sinh hoạt cho cả một gia đình bảy người. Nó bỗng trở nên lỗi mốt, lọt thỏm giữa những đám nhà hiện đại hình khối ba bốn tầng, kính đen mờ và chòm mái đua cao nhọn hoắt trông giống chiếc mũ tây chật chội đội trên đầu anh lực điền thô vạm. Trước nhà vẫn còn khoảng sân và mảnh vườn nhỏ trồng thuốc nam. Ông cụ thân sinh ra bạn của bà vốn là ông thầy thuốc nam nức tiếng một vùng. Vì ông cụ chuyên làm phúc nên Trời Phật thương phù hộ cho trong nhà có của ăn của để. Kẻ được ông cứu mạng sống trước đây gặp thời đã đứng ra tố, khiến ông cụ uất ức đổ bệnh nằm liệt giường. Ông đã cứu bao người nhưng đến lượt mình đành bó tay phó mặc cho mệnh trời. Thuốc đổ bao nhiêu cũng không lại. Người bạn nhắc lại chuyện này vẫn còn rưng rưng khóc khiến bà không sao đứng dậy ra về. Bà men theo lối ngõ, cố tìm lại một chút thân thương xưa cũ của những vườn hoa xinh đẹp thơ mộng thuở nào của trại Hàng Hoa nhưng tuyệt nhiên không thấy. Những kỷ niệm lung linh đã bị chôn sâu dưới những móng nhà cao tầng chen chúc ngang dọc, che khuất cả một trời nắng đẹp thường buông lên một vùng bát ngát ngày trước. Lùi - Tiếp theo >> lon to THẾ GIỚI SEX

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét