Thứ Bảy, 5 tháng 1, 2013

Bốn Anh Tài

lon to Bốn Anh Tài Tác giả: Khuyết Danh Ngày xưa có hai vợ chồng nhà nghèo không con. Hai vợ chồng khấn vái hết đền này đến chùa khác, mãi sau mới sinh được một mụn con trai. Thằng bé lớn lên như thổi. Nhưng càng lớn, hắn càng ăn rất tợn: bung kia, chảo nọ nấu lên bao nhiêu cũng vợi. Hai vợ chồng cố sức làm lụng để nuôi con nhưng nuôi không nổi. Trong nhà có vật gì đáng tiền, họ đều bán sạch để cho con chèn dạ dày. Sau rồi hai vợ chồng nghĩ chỉ có cách cho con đi tha phương cầu thực mới đỡ khốn vì nó. Một hôm, người cha gọi con lại, bảo rằng: - Nay con đã khôn lớn mà cha mẹ gần đất xa trời, yếu đuối không làm gì được để nuôi con. Ngày xưa lúc nhà ta còn khá giả, có hoàng đế Trung Quốc vay vàng và bạc đến 70 vạn lạng. Bây giờ con tìm cách sang bên đó đòi lấy mà ăn. Nghe nói, người con vâng lời đi ngay. Chàng cứ dọc bờ biển đi lần về phương Bắc. Một hôm, đến một xứ kia, bỗng gặp một người khổng lồ đang tát biển, anh chàng tiến lại hỏi: - Anh làm gì đấy? Khổng lồ đáp: - Tôi tát cạn biển, để tìm vàng ngọc dưới đó. - Sức lực một mình làm sao mà tát cạn được. - Ta có sức khoẻ không ai bì kịp. Anh cứ thử lại xách gàu của ta xem. Nhưng khổng lồ lấy làm lạ vì hắn cũng nhấc nổi cái gàu của mình, bèn mời về nhà kết nghĩa anh em. Anh chàng bèn rủ: - Anh hãy đi theo tôi đòi nợ vua Trung Quốc lấy tiền ăn tiêu ngay, còn như tát biển thì chờ lúc nào về, lại sẽ tiếp tục. Khổng lồ nghe bùi tai, liền cùng nhau ra đi. Một hôm, họ đi đến một hòn núi. Thấy một anh chàng trẻ tuổi ngồi trên một tảng đá lớn có vẻ nhàn hạ, hai người tiến đến hỏi hắn làm gì mà ngồi đấy. Hắn đáp: - Ta ngồi đây thỉnh thoảng lại thổi một hơi làm cho ngã cây ngã cối đưa về làm củi. Nghe nói lạ, hai người bảo anh làm thử cho xem. Quả nhiên hắn vừa phùng má thổi một hơi thì cây cối ở trước mặt tự nhiên ngã rạp xuống như bị một trận bão nặng nề. Hai người bảo anh rằng: - Bác có tài thế sao không đi khắp thiên hạ làm cho nổi tiếng một phen chứ lại sống chui rúc ở xó rừng này làm gì? Thôi! Bác hãy cùng chúng tôi đi đòi nợ vua Trung Quốc, ngó chừng còn thú vị hơn ở đây! Anh chàng nghe nói bằng lòng ngay. Rồi đó cả bọn cùng lên đường. Mười ngày sau, bọn họ lại đến một khu rừng khác. Thấy từ trong rừng sâu tiến ra một người cao lớn, vai gánh một đôi voi đi như bay. Cả bọn kinh phục, vội gọi giật lại hỏi: - Bác gánh voi đi đâu đó? - Tôi hàng ngày vào rừng tìm voi mà bắt. Bắt được con nào thì trói giò lại gánh về rữa thịt lấy một hai cây ngà bán kiếm tiền ăn tiêu. Cả bọn bảo: - Thôi! Sức khoẻ như thế tội gì cặm cụi trong rừng cho khổ. Hãy đi với chúng tôi đòi nợ vua Trung Quốc về chia nhau ăn đi. Nghe nói, anh chàng vừa ý vội bỏ voi lại nói: - Ừ! thì đi. Đến kinh đô Trung Quốc, bốn chàng tìm đến hoàng cung. Một toán lính gác cổng cản lại không cho vào. Cả bọn nổi xung lên, nói: - Bọn tao sang đây đòi nợ chứ có phải chơi đâu mà không cho vào. Và họ toan giã cho chúng một trận, nhưng anh chàng ăn khoẻ cản lại rồi viết một bức thư đòi nợ, bảo tên lính đem vào cho vua. Hoàng đế Trung Quốc đọc xong lấy làm lạ, liền sai một viên cận thần ra xem thử người nào mà to gan đến như thế. Viên cận thần ra một lát, trở vào tâu rằng: - Có bốn tên dị hình dị dạng ở nước An Nam sang, đứa nào cũng quyết đòi nợ được mới về. Chúng nó toan đánh cả lính. Hoàng đế nghe nói không vui, nhưng cũng truyền dọn yến đãi đằng tử tế trước khi gặp họ. Bốn chàng được mời vào một phòng riêng ăn uống nghỉ ngơi trong vòng vài ba ngày. Nhưng họ ăn uống hung quá đến nỗi qua ngày thứ ba mấy viên quan trông nom về ngự thiện phải vào báo với vua rằng kho thức ăn của hoàng đế vì việc tiếp đãi bốn người khách lạ đã vơi hết già nửa. Hoàng đế nghe nói giật mình, vội bảo mấy viên đại thần tìm cách ám hại họ đi cho khỏi phiền. Người ta được lệnh mời bốn chàng đi thuyền chơi hồ thì đánh đắm cho chết đuối tất cả. Quả nhiên bốn anh em không ngờ sa vào mưu gian bị chìm xuống nước. Nhưng giữa lúc nguy cấp thì anh chàng khổng lồ nắm lấy chiếc thuyền như một chiếc gầu rồi tát lấy tát để. Chỉ trong một chốc, đáy hồ khô cạn, cứu ba người kia khỏi chết đuối. Thấy họ sống yên lành, hoàng đế tức giận, vội sai dọn yến tiệc khoản đãi, rồi chờ lúc họ no say mới sai mấy đội quân xông vào vây chém. Hôm ấy, bốn chàng vô tình cùng nhau chén tạc chén thù không nghi ngờ gì cả. Bỗng nhiên một tiếng hô vang, phục binh xông ra như kiến. Cả bọn toan chạy, anh chàng thổi khoẻ đã ngăn lại mà rằng: - Các anh cứ để yên, để tôi cho bọn chúng xiêu dạt một phen! Nói rồi, phùng má thổi mấy hơi, bọn lính chịu không nổi với sức gió, bay văng đi như những chiếc lá khô. Thế rồi ở trong này, bốn chàng vẫn cứ ung dung ngồi chén tì tì cho đến mãn tiệc. Lần này hoàng đế Trung Quốc lo lắng hết sức. Vua sai triệu các vị cơ mật đến tính cách đối phó. Nhưng mọi người khuyên vua nên trả quách đi cho êm chuyện. Vua nói: - Bảy mươi vạn lạng thì nhiều quá. Các khanh có cách gì bắt chúng giảm bớt được không? Một viên quan tâu lên: - Bệ hạ cứ bằng lòng trả, nhưng bắt các thần dân, các thuyền bè xe cộ, khắp trong nước không ai được gánh thuê chở thuê cho chúng và bắt chúng nó không được chuyên chở nhiều lần. Như thế dù có sức như Hạng Vũ cũng chỉ mang ra được chừng dăm bảy trăm cân là hết nước. Vua bằng lòng theo cách đó. Đến ngày nhận vàng bạc, người ta thấy một mình anh chàng gánh voi quảy hai sọt lớn vào kho. Chúng không ngờ chỉ một người đó mà thôi, đã thừa sức gánh 70 vạn lạng. Bọn quan coi kho không biết làm thế nào, đành cắm đầu cân lấy cân để, vơi hẳn cả kho bạc. Được của, bốn anh chàng cúi chào hoàng đế rồi ung dung đi ra khỏi cung. Về nước, họ chia nhau tiêu xài sung sướng trọn đời. lon to THẾ GIỚI SEX

Bốn Bức Thư

lon to Bốn Bức Thư Tác giả: Lê văn thảo Kính thưa chú, Cháu viết thư này cho chú do hôm rồi cháu đọc trên báo thấy chú làm ban giám khảo cuộc thi "Viết về cha tôi", chú viết bài tổng kết nêu bao tấm gương nhiều người cha hy sinh tận tụy, xả thân mình vì đàn con thương yêu làm cháu thấy tủi thân quá. Là do ba cháu không được như vậy, ba cháu bỏ mẹ con cháu đi lấy vợ khác. Phận làm con, cháu không muốn phê phán làm gì, với lại hồi đó cháu còn nhỏ, mới bảy tuổi, thêm nữa ba má cháu rất kín tiếng chuyện riêng tư của người lớn thường ít nói trước mặt cháu. Tuy vậy cháu cũng biết được đôi điều, và sau này lớn lên suy nghĩ thêm cháu lại biết thêm "đôi điều" nữa, cháu muốn nói hết những suy nghĩ tâm tư của cháu để chú có thể thông cảm và có cách gì giúp đỡ được cháu. Cháu nói cháu không muốn phê phán nhưng những nỗi khổ mẹ con cháu phải gánh chịu sau khi ba cháu đi rồi thật không sao kể xiết. Không phải chuyện đời sống vật chất, ba má cháu là dân kháng chiến từ trong rừng về, cháu cũng sinh ra trong ấy nhà cháu chịu cực quen rồi. Nhưng chú hãy tưởng tượng xem gia đình đang cha mẹ con cái đề huề như vậy bỗng dưng chỉ còn hai mẹ con với nhau. Đó là vào năm 77, giải phóng chỉ mới hơn năm, cháu bảy tuổi và ba má cháu đều cùng tuổi ba mươi hai. ở tuổi đó, ba má sống với nhau thì xứng đôi vừa lứa nhưng xa nhau ra má cháu với cháu lúc nào cũng kè kè một bên đã thành một bà già còn ba cháu như một ông thanh niên mặc tình bay nhảy. Chú thấy có cay đắng không, và cay đắng về phía ai, về má cháu hay với ông bay nhảy ấy? Ly dị xong, ba cháu để lại ngôi nhà cho mẹ con cháu, đúng ra chỉ một căn phòng trên từng năm chung cư, không biết đi đâu. Đi đâu cũng được thôi, ba cháu có thể cưới một cô hai mươi dễ như không. Mà cũng không cần tìm kiếm, có khi có sẵn đâu rồi đó. Nhưng ba cháu không cưới vợ liền, cháu có theo dõi cháu biết, ba cháu đến ở nhờ nhà một người bạn độc thân cũng ở một phòng trên từng năm chung cư, của cải góp vào chỉ có chiếc nồi cơm điện và cây đàn ghi-ta. Rồi người bạn độc thân lại nổi máu giang hồ bỏ lên rừng nghiên cứu hoa lá gì đó để lại căn phòng cho ba cháu, chỉ xin lấy cây đàn ghi-ta. Vậy là ba cháu được ở một mình và cháu ngờ rằng đây là lúc ba cháu giở trò hoa lá của mình. Nhưng không, ba cháu không tiếp khách phụ nữ nào cả, một bà già cũng không. Cháu tìm được một con nhỏ bạn học cùng trường nhà ở trong chung cư ấy, mọi nhứt cử nhứt động của ba cháu cháu đều biết hết. Một thời gian dài không có chuyện gì xảy ra, là nói chuyện ba cháu ấy. Nhưng với cháu thì sanh đủ thứ chuyện phiền toái. Có cha mà như không cha, không biết ghi địa chỉ, số điện thoại như thế nào trong học bạ. Ai biết ông ấy có mắc điện thoại hay chưa ? Ba cháu lấy vợ sau đó năm năm, vào lúc cháu bận thi không kịp theo dõi, hình như có gửi thiệp mời nhưng má cháu dấu đi, con nhỏ bạn "gián điệp" khoe có đi dự lễ cưới diện quần áo đẹp còn hơn cô dâu. Thì nó cũng mười ba tuổi rồi, bằng tuổi cháu, cũng biết làm bộ làm điệu rồi. Bà vợ sau của cha cháu là một người phụ nữ hiền lành, cũng không trẻ gì lắm so với ba cháu, khá đẹp và lại là con nhà giàu không hiểu sao tới tuổi đó mới chịu lấy chồng. Cháu không nói chuyện đó với má cháu để bà tự tìm hiểu lấy nhưng cháu lại ráo riết thông qua con nhỏ bạn "gián điệp" theo dõi bà ấy. Cũng không có gì để theo theo dõi, gia đình ấy sống có vẻ bình thường giản dị, ba cháu vẫn ở căn phòng ấy và bà dì về ở với ông, không thấy đem đồ đạc của cải gì về, bà may quần áo gia công nhì nhằng ở nhà và ba cháu vẫn làm ở cơ quan công đoàn. Một năm trôi qua, cháu bớt chú ý đến gia đình ấy cho đến lúc bà dì sanh con, một đứa con trai giống ba cháu như đúc, và như vậy nó cũng rất giống cháu. Lâu nay cháu chỉ dò hỏi chuyện gia đình ấy thông qua con nhỏ bạn "gián điệp", nhưng giờ thì cháu muốn vào tận nhà. Phải nhìn mặt thằng nhỏ, nó là con của ba cháu cũng là em của cháu. Cũng dễ thôi, ba cháu đi làm suốt ngày, bà dì ở nhà may quần áo, có hai con nhỏ mồm miệng láu lỉnh đến nói chuyện chơi cũng vui. Thế là cháu "đột" đến nhà không phải một lần mà là nhiều lần, lựa lúc ba cháu đi làm, bà dì để mặc cho cháu bồng bế hun hít đứa nhỏ và cháu mặc sức ngắm nghía coi kỹ càng từ hàng lông mi đến móng tay móng chân của nó, coi phần nào nó giống cháu và ba cháu, phần nào nó giống má nó. Con nít thật lạ,ồ khi cháu bồng nó lên nó giống hệt cháu, đến khi bà dì bồng nó lại giống hệt bà. Những lần gặp đứa em cháu rất vui nhưng ra về thì lại buồn, bồng đứa em ruột thịt trên tay mà như bồng đứa con nít xa lạ, nghĩ bụng ba cháu không bỏ má cháu thì đứa em này đang ở trong nhà cháu, cùng sống với cháu. Ba cháu thường đến gặp cháu ở trường lúc tan học, cháu chỉ chịu cho ba cháu dẫn đi ăn kem chừng nửa tiếng đồng hồ, không chịu cho dẫn đi mua sắm đồ đạc. Nhưng đồ đạc gửi đến nhà qua má cháu thì cháu nhận. Ngồi ở tiệm kem chỉ có ba cháu nói và cháu ngồi nghe, ba cháu hỏi thăm má cháu rồi hỏi chuyện học hành của cháu, nhắn lời bà dì thăm cháu nói bà có ý muốn được gặp mặt cháu làm cháu phải quay đi để giấu nụ cười. Chuyện ba cháu rồi cũng đến đó thôi, ông ấy sẽ già lão đi yên phận ông ấy. Nhưng còn đứa em cháu mỗi ngày nó một lớn lên mọc răng biết bò biết đi, nó nói đỏ đẻ ngọng nghịu đến là thương, bà dì gửi nó ở nhà trẻ, cháu theo đến đó giành với cô bảo mẫu bồng bế hun hít, nó không biết cháu là chị nó nhưng quen lâu rồi cũng thân thiết coi như chị. Rồi nó đi học và cháu lại theo nó đến trường. Nó học dở lắm, không giống cháu chút nào, chữ viết xấu như cua bò, nhưng ngoài ra nó thật dễ thương ngây thơ, không màng tới chuyện cháu là ai tại sao cứ bám riết nó như vậy. Chuyện như vậy đó chú à, chỉ có như vậy thôi. Nhưng như vậy cháu phải làm sao, chẳng lẽ cháu cứ phải thập thò hoài trước cổng trường với đứa em ruột thịt nhưng cứ phải làm người xa lạ ấy ? Cháu đã hai mươi tuổi rồi hiện đang học năm thứ ba đại học, cháu rồi sẽ bận chuyện riêng của cháu. Và đứa em cháu cũng đã bảy tuổi, đang học lớp ba. Ba cháu rồi sẽ già đi, má cháu cũng vậy, cả bà dì nữa, cuộc sống phía trước là của chị em cháu, chúng cháu phải nương tựa vào nhau mà sống, không thể cứ thập thò lén lút như vậy. Cháu biết chuyện cháu không giống với các chuyện các chú cho đăng báo, cả những chuyện không đăng, thậm chí như trái ngược lại, nhưng chú thấy đó, ba má cháu thôi nhau đã lâu, tưởng mạnh ai nấy sống thế rồi cháu có đứa em nó còn nhỏ cháu phải được gần gũi chăm sóc dạy bảo nó. Vậy cháu phải làm sao ? Kính thưa ông, Tôi là mẹ của cháu Hồng, đứa con gái vừa viết thư cho ông, nói chuyện chia rẽ gia đình chúng tôi và chuyện nó có đứa em trai cùng cha khác mẹ. Tôi không đọc bức thư đó nhưng tôi có đọc đoạn nhựt ký nó viết về chuyện đó. Tôi thật không hiểu tại sao nó lại đi làm phiền ông như vậy và cũng áy náy không biết nó nói gì với ông, tôi viết thư này trước tiên mong ông thông cảm và tha thứ cho nó nếu nó có nói điều gì không phải, sau nữa nói thêm đôi điều con gái tôi có thể quên hoặc nói không đúng. Con gái tôi mới hai mươi tuổi, tính tình còn nông nổi bộp chộp lắm, tôi đoán trong chuyện thôi nhau của vợ chồng tôi nó binh tôi và phiền trách cha nó, và còn nhiều chuyện khác đại loại như vậy. Sự thật không đúng như thế, để tôi kể ông nghe. Trước tiên tôi chắc nó dấu ông chuyện tôi đã có chồng ? Tôi lấy chồng sau ba nó lấy vợ hơn năm, hoàn toàn tình cờ thôi, chúng tôi gặp nhau trong một hội nghị, tôi gặp cảnh dang dở như vậy phải một mình nuôi con còn anh ấy là thương binh loại nặng không còn khả năng sinh con, chúng tôi dễ dàng thông cảm nhau, coi như gá nghĩa sống với nhau vậy thôi. Về chuyện tôi với ba cháu Hồng thôi nhau, tuy cháu giận dỗi phiền muộn riêng tôi thì không trách gì anh ấy cả, không sống được với nhau thì thôi nhau, tôi chỉ buồn cho riêng tôi coi như chuyện không may của mình. Giờ tôi đã có chồng khác, tôi có nhiệm vụ phải thương yêu chăm sóc người chồng bịnh hoạn của mình. Thật tình, ngay từ lúc tôi và ba cháu Hồng lấy nhau, hồi ở trong rừng, với bản năng của người phụ nữ tôi đã cảm thấy có gì đó không ổn. Chúng tôi đều là cán bộ cũng có thương nhau đó nhưng cũng do hoàn cảnh bấn chật ở rừng lại do đôi bên tổ chức gán ghép, trình độ chúng tôi cách biệt nhau, anh ấy là dân trí thức ở thành phố còn tôi là người dân quê ở nông thôn, sự cách biệt ấy trong chiến tranh ở rừng khó thấy nhưng hòa bình rồi về thành phố thì lộ ra ngay. Thế là chúng tôi quyết định thôi nhau, có bàn bạc kỹ càng nhưng cháu Hồng không biết tưởng ba nó bỏ tôi liền dãy nảy lên nhiếc móc ba nó đủ điều, tôi nhiều lần khuyên can nó nói cha mẹ dù có thế nào con cái cũng phải biết phận mình. Và tự trong thâm tâm tôi cũng dặn mình như thế, tôi có mất chồng nhưng không được để cho cháu Hồng mất cha. Tôi thường xuyên điện thoại lại cơ quan ba cháu Hồng nhắc anh ấy đến thăm cháu, nói anh ấy không còn vợ nữa nhưng vẫn còn con, và nếu anh ấy nhận lời tôi nán lại cơ quan lâu hơn để anh ấy đến nhà được tự nhiên. Nhưng con gái tôi thật đến kỳ quặc, không khi nào nó chịu cho anh ấy đến nhà, chỉ cho đến trường dẫn nó đi ăn kem chừng nửa tiếng đồng hồ, anh ấy nói gì nó không bao giờ kể lại với tôi hoặc có kể thì cũng kể khác đi. Hôm chia tay, tôi nói với ba cháu Hồng : vợ chồng thôi nhau không nêu gương hay ho gì cho con cái nhưng không thương nhau sống với nhau càng nêu gương xấu hơn. Có vẻ anh ấy biết ơn tôi về câu nói đó. Chuyện dang dở của tôi được an ủi phần nào khi tôi gặp được người chồng sau thật là một người hết lòng thương yêu vợ con, và cháu Hồng cũng vậy, với anh ấy lúc nào cũng "ba, ba, con con" thật ngọt ngào, âu yếm. Trong lúc đối với cha đẻ của nó, người chồng trước của tôi, lúc nào nó cũng một mực cáu kỉnh khó chịu. Tưởng rằng chuyện chỉ đến đó thôi, tôi đã có chồng ba cháu Hồng đã có vợ, cháu Hồng đã lớn còn phải lo học hành sau này sống cuộc đời riêng của nó. Nhưng rồi ba cháu Hồng sanh con và mọi chuyện bỗng khác đi. Con gái tôi cứ bám riết lấy thằng nhỏ. Lâu nay chuyện nó gặp ba nó nó không hề hé miệng nói với tôi giờ ngày nào nó cũng kể đủ chuyện về em nó, nào thằng nhỏ mọc răng sổ sữa thế nào, biết bò biết đi ra sao. Tôi nói với nó : "Nó là em mày, dính líu gì đến tao ?". Nó đáp : "Nhưng má là má của con". Nó nói kiểu ngang như vậy không làm sao cãi lại được với nó. Và một điều kì quặc nữa, mặc dù rất thương người cha dượng không khi nào nó kể chuyện đứa nhỏ với anh ấy. Chắc nó nghĩ ba của đứa em trai nó dù sao cũng là chồng trước của tôi. Đầu tiên cháu Hồng đến thăm em trai nó ở nhà, "đột" vào nhờ một con nhỏ bạn "gián điệp" nào đó, sau đó nó đến nhà trẻ, rồi đến trường học. Có lần nó mua cho thằng nhỏ bộ quần áo mới và lột truồng thằng nhỏ thay đồ ngay tại sân trường. Nó nói với tôi : "Con e bà dì nuôi thằng nhỏ không tốt má à, không bằng má nuôi con đâu. Phụ nữ nhà giàu tay mềm quá làm sao biết giặt đồ rửa đít cho con nít ?". Tôi không thể nói với nó, thôi kệ người ta, bởi đó cũng là em trai nó. Tôi chỉ khuyên nó ráng lo học hành sau này rồi lấy chồng đẻ con mặc sức nuôi con. Bỗng một hôm cháu Hồng nói với tôi : "Chừng bà dì sanh đứa con nữa con bắt thằng nhỏ về nuôi". Tôi nghe vậy sợ quá, con nhỏ này dám nói là làm lắm. Thử nghĩ coi có đứa nhỏ chẳng đính líu gì tới tôi ở trong nhà tôi. Nhưng tôi đành làm thinh vì biết mình chẳng thể sanh cho nó một đứa em. Và cũng vì nó nuôi em nó tôi biết nói làm sao ? Chuyện kéo dài như vậy cho đến hôm rồi tôi biết con gái tôi viết thư cho ông. Tôi nói với nó : "Người ta làm ban giám khảo là làm lớn lắm sao con làm chuyện phiền nhiễu bận rộn như vậy". Nó đáp : "Con phải nói cho mọi người biết con có một đứa em, nhờ đăng báo cũng được". Vẫn cái tật ngang bướng của nó. Tôi có hai đời chồng, sống với người thứ nhất như đồng chí, và người thứ hai như người nuôi bịnh. Nhưng tôi đâu trách gì ai, bản thân tôi không tạo được tình yêu cho riêng mình, giờ tôi chỉ còn đứa con để dồn tình thương cho nó. Nhưng rồi con cái lớn lên những vấn đề mới lại nảy sinh, như ta sống tiếp cuộc đời thứ hai vậy. Chỉ riêng việc cháu Hồng tôi bày vẻ lằng nhằng với đứa em trai nó cũng khiến tôi rối trí rồi. Và tôi biết sẽ còn nhiều chuyện khác nữa, cuộc đời còn đang ở phía trước nó. Tôi phải làm sao ngăn chặn chuyện đó lại? Kính anh, Tôi là ba của cháu Hồng, đứa con gái nhỏ đã viết thư cho anh nói chuyện tôi bỏ mẹ con nó với đủ thứ những lời lẽ chê trách oán phiền. Tôi chắc như thế, không thể nào khác được. Chuyện nó viết thư cho ông, má nó điện báo cho tôi biết không nói đồng tình hay phản đối, cô ấy vốn hiền lành chất phác nghĩ sao nói vậy thôi. Tôi nghĩ không thể nào không làm phiền anh được, phải viết thư cho anh thôi, và cũng xin lỗi anh trước khi viết thư tôi đã điện lại tòa soạn hỏi thăm đôi điều về anh, và khi được biết anh cũng là dân kháng chiến về, cũng trạc tuổi tôi, tôi lấy làm mừng nghĩ có thể anh thông cảm với tôi phần nào. Và cũng xin nói trước không cần phải dấu diếm điều gì cả, chuyện dang dở giữa tôi và người vợ trước là do tôi. Vợ chồng thôi nhau cả hai đều có lỗi nhưng người đàn ông phải chịu trách nhiệm là chính. Do đó con gái tôi binh má nó giận tôi là điều đúng thôi. Nhưng tôi đâu biết làm sao, thanh minh điều gì, tôi có chạy theo cô gái nào khác hoặc tìm chỗ yên ấm riêng tư nào đâu. Chỉ có điều tình yêu cứ cạn dần rồi tàn lụi như ngọn đèn hết dầu vậy thôi. Tôi có nói điều đó với vợ tôi và vợ tôi cũng đồng ý với tôi, rằng vợ chồng thôi nhau chẳng tốt đẹp gì nhưng không nên để tình trạng trầm trọng hơn. Chỉ lo đứa con còn nhỏ, mới bảy tuổi, nhưng rồi lớn lên nó sẽ hiểu. Cha mẹ sống vì con cái, chuyện chúng tôi đành vậy, còn lại chúng tôi ráng tập trung lo cho đứa con. Con gái tôi là một đứa con gái ngoan, tốt bụng, tôi biết thế. Có lần tôi đến trường dẫn nó đi ăn kem nói với nó : "Ba thật có lỗi với má con. Và cả với con. Chuyện ba má không sống chung được với nhau sau này lớn lên con sẽ hiểu nhưng ba vẫn biết ơn má con về những ngày chung sống với nhau, và càng biết ơn hơn về má con đã sinh ra con". Nó nghe tôi không đáp lại gì cả, trước kia cũng như sau này, không biết đang nghĩ gì. Ai biết được đứa con gái hai mươi tuổi nghĩ gì trong đầu ? Sau đó rồi tôi hỏi qua chuyện học hành của nó và nó chỉ kể cho tôi nghe chuyện nó đi thực tập hay xem phim gì đó. Tôi mua đồ cho nó nó không chịu nhận, nhưng tôi gửi đến nhà không thấy nó trả lại gì cả. Sau này nó đã lớn sợ nó mắc cỡ với bạn bè tôi ít đến trường thăm nó và thường viết thư nhiều hơn, và qua thư từ tôi cũng dễ nói hơn, tôi mong rằng rồi chuyện sẽ qua đi theo năm tháng, tuổi trẻ hay quên rồi nó sẽ tha thứ cho tôi. Nhưng chuyện chưa yên được bao lâu lại xáo trộn lên với việc tôi sanh đứa con trai. Thì tôi đã lấy vợ, vợ tôi đã lấy chồng, gia đình ai nấy sống, tôi sanh con cũng là lẽ thường tình. Nhưng con gái tôi không chịu nghĩ như vậy, nói con trai tôi cũng là em nó thế là nó bám lấy đứa nhỏ, ngay từ đầu nó "đột" đến nhà tôi, tôi biết hết nhưng tránh đi để nó được tự nhiên. Và tôi còn biết nhiều chuyện hơn nữa thông qua cô bạn nhỏ "gián điệp" của nó, cô nhỏ này thật ra là "gián điệp hai mang" kể chuyện tôi cho nó nghe rồi kể chuyện nó cho tôi nghe. Thôi thì chuyện cứ như vậy, nó quan tâm đến em nó làm sao ngăn cản được, nhưng con nhỏ ngày càng quá quắt hơn, thậm chí ghen với vợ sau tôi, cho rằng đáng lẽ má nó đẻ ra đứa em trai nó chớ không phải bà dì nó. Nó giành quyền chăm sóc đứa nhỏ, nói nó ngày xưa được má nó chăm sóc như thế nào giờ em nó cũng phải được chăm sóc như thế ấy. Có lần nó không vừa ý bộ quần áo vợ tôi mua cho đứa nhỏ, nó mua bộ khác lột truồng thằng nhỏ thay đồ ngay tại sân trường. Chuyện là như thế. Nhưng chắc không chỉ như thế. Con gái tôi rồi sẽ ngày càng gắn bó với em trai nó sẽ còn làm nhiều chuyện kỳ cục nữa, bà vợ tôi tuy hiền lành chắc cũng không chịu thua, bà vợ trước rồi cũng sẽ xông vào, chuyện gì xảy ra với ba người phụ nữ tôi làm sao biết được. Và tôi đâu còn ở tuổi để dính líu tới những chuyện như thế. Tôi không có ý định hỏi anh, chỉ tâm sự với anh thôi. Chuyện đời ta đôi khi tưởng sóng gió đã qua nào ngờ ta sanh con, con cái lớn lên mọi chuyện lại hiện ra dưới một làn ánh sáng mới. Như tôi đó, giờ tôi lại bắt đầu với không phải một mà là hai gia đình. Kính thưa bác, Cháu là em của chị Hồng cháu, bảy tuổi, học lớp ba, chị Hồng cháu bảo cháu viết thư cho bác nhưng dặn đừng nói là chị bảo. Chị cũng dặn cháu viết gì cho bác nhưng cháu quên mất rồi. Cháu hay quên lắm. ở trường cô giáo biết tụi cháu hay quên có dặn gì bắt tụi cháu ghi vào vở nhưng về nhà cháu lại quên giở ra coi. Kỳ nghỉ hè này trường cháu có đợt cắm trại tại Thủ Đức, con nhỏ lớp trưởng dặn bảo đủ thứ bắt ghi vào tập vở nào chương trình sinh hoạt đồ đạc mang theo cháu ghi đủ hết nhưng rồi cháu lại vô ý lấy tờ giấy xếp làm máy bay phóng đi. Lớp cháu lớp trưởng là con gái, lớp phó cũng là con gái, học mấy thứ hạng đầu cũng là tụi nó. Con trai tụi cháu tức lắm hẹn nhau không chơi với tụi nó nhưng cô giáo bắt phải ngồi xen kẽ mỗi bàn đều có con trai con gái thành ra cũng cứ phải nói chuyện với nhau. Cũng được thôi, nhưng tụi con gái nói chuyện nhiều không chịu nổi, không khi nào nói lại chúng. Cháu rất ghét bọn con gái, trừ chị Hồng cháu, và má cháu. Chị Hồng cháu thường đến trường gặp cháu, chị núp sau gốc cây đến lúc ba cháu đưa cháu đến quay xe về, chị chạy ra lôi cháu đến ngồi trên băng đá hai chị em nói chuyện với nhau. Thật ra chỉ có chị nói còn cháu ngồi nghe. Chị vừa nói vừa sửa lại chiếc khăn quàng, chải lại tóc cho cháu, hỏi cháu tại sao áo dính mực. Chị nói chị biết cháu từ lúc cháu mới sanh, chị gặp cháu ở nhà trẻ rồi đến đây. Cho đến một hôm chị nói nhỏ cho cháu biết chị là chị ruột của cháu. Không thấy hai chị em giống nhau à? Đây nè thẻ học sinh của chị có thấy cùng họ không ? Chị Hồng học đại học lâm nghiệp, dặn cháu sau này cũng học ngành ấy để hai chị em cùng đi rừng với nhau. Và nếu cần thì cất nhà ở luôn trên rừng. Cháu hỏi còn chuyện chị lấy chồng thì sao, và tại sao con gái phải lấy chồng ? Chị thở dài nói chị không biết, chị rất khổ tâm về chuyện ấy, và cấm cháu không nói tới chuyện ấy nữa. Rồi chị nói sang chuyện khác, chuyện ba cháu, cũng là ba chị, bao giờ nói tới ba chị cũng giận dỗi, chê trách đủ điều. Chị còn tìm cách chọc tức ba. Như có lần tan trường chị đến trước bảo cháu trốn ba, gì chớ chuyện trốn tìm cháu thích lắm thế là cháu trốn biệt sau hốc tường ba tìm mãi không gặp, học trò về hết sân trường vắng tanh ba hoảng sợ chạy táo tác, chị Hồng thấy vậy liền giận dữ không phải với ba cháu mà với cháu, chị đến hốc tường lôi cháu ra đẩy về phía ba còn đánh đít cháu mấy cái nữa. Có một hôm trông chị Hồng buồn hẳn đi, ngồi nói chuyện với cháu chị như muốn khóc nhắc lại chuyện hai chị em cùng lên rừng ở với nhau. " Em đồng ý không ?" Chị nói "Chỉ hai chị em mình thôi. Đầu tiên chị nuôi em, rồi sau em nuôi chị". Cháu hỏi : "Chị bỏ má chị ở nhà sao ?". Chị thở dài đáp : "ừ chị không thể bỏ má chị, chị thương má chị lắm. Cả ông dượng nữa..." Cháu nói : "Em cũng thương má em lắm. Thế còn ba ?" Chị liền từ chối phắt : "Khoan đã, ông ba của tụi mình còn bay nhảy lắm, để ông ấy già một chút đã" Cháu nói : "Nhưng như vậy rồi chị cũng rước ba lên phải không ? Như vậy là đủ hết hai gia đình rồi còn gì ?". Cháu thật không hiểu. Chị Hồng lớn hơn cháu, lại là con gái nên cháu thật không hiểu ... 10-1998 lon to THẾ GIỚI SEX

Bốn Cô Gái Trong Dêm Giao Thừa

lon to Bốn Cô Gái Trong Dêm Giao Thừa Tác giả: Lê văn thảo Đến ngày giáp Tết nhóm bạn gái chưa có ý định đi đâu chơi cả thì Hà nói : - Về quê tao ăn Tết đi, năm nay mình nghèo về quê ăn Tết cho nó "tiết kiệm". Vậy là coi như quyết định hén ? Nhóm bạn nhìn Hà ngạc nhiên : quê Hà đâu mà về ? Hà mồ côi từ nhỏ, lớn lên ở trại tế bần cả đời chưa ra khỏi thành phố, có nghe Hà nói có quê gì đâu. Ngay đến tên cha mẹ chưa chắc Hà đã biết. Chỉ có ngày sinh tháng đẻ là Hà nhớ rất rõ, là do phải thường xuyên viết lý lịch xin việc làm, nhưng chắc cũng là ngày tháng do Hà sáng tác ra mà thôi. Nhóm bạn gái có bốn người : Hà, Hạnh, Huyền, Nhi. Bốn cô gái, bốn sắc màu. Hạnh dạo gần đây chạy chọt thế nào xin được một chân thư ký ở hãng buôn nước ngoài, đúng ra đang làm tập sự thôi nhưng cũng được chủ cho mượn chiếc xe Cup suốt ngày chạy nhong ngoài đường "cho biết thế nào là tốc độ". Hạnh có vẻ hứng chí lắm, cho rằng đời mình đang lên, lại còn tuyên bố sẽ mướn nhà ở riêng, những ngày ở đây coi như ở gá vậy thôi. Huyền và Nhi làm ở cửa hàng sách lương tháng chỉ đủ ăn sáng và mua quai guốc, mọi khoản khác đều phải nhờ chi viện từ dưới quê lên. Huyền lên thành phố trước có việc làm rồi mới kéo Nhi lên, hai người là chị em họ, cô em Nhi sau cùng và cũng nhỏ nhứt của nhóm bạn này chưa quen với thành phố và coi vẻ không thể nào quen được, cứ tối đến là vùi đầu vào gối khóc rấm rức đòi trở về quê hoài. Họ mướn một căn phòng ở chung với nhau, một căn gác sàn gỗ mái tôn cao nghệu như một gác chuông, nấu ăn bằng một bếp điện và tắm rửa giặt giũ chung với chủ nhà ở bên dưới, nhưng phải đợi tới giờ họ xem ti vi hoặc đi ngủ. Nói chung là cực, cả bốn sắc màu cùng than thở một giọng. Nhưng họ lại lạc quan nói thêm rằng họ đang đi tìm tương lai, và nếu có thể, tìm chồng luôn. Giờ đây ở nhà chỉ còn ba, vắng Hạnh đang chạy rong ngoài đường. Hà nói tiếp : - Hai đứa bây dòm tao cái gì ? Ai không có quê, con người ta từ dưới lỗ nẻ chui lên hả ? Quê tao gần lắm, cứ mua vé xe đò theo lộ Bốn đi riết đi riết, qua Long An rồi qua Mỹ Tho đi một chập nữa thấy có chòm mả đá có con lộ đất thì rẽ vào. - Không biết con Hạnh có chịu đi không ? - Huyền hỏi. Đó là cô gái lớn tuổi nhứt bọn, đã hăm bảy, người ốm yếu xanh xao nên trông càng già hơn thường được nhóm gọi là "Chị Hai". Hà nói : - Nó không đi thì thôi, bây giờ nó thuộc giai cấp khác rồi, nó mê chiếc Cúp hơn tụi mình. Con Nhi đi chơi không được khóc nghe chưa ? Quê tao cũng giống hệt quê mày, cây trái nhiều lắm, trước cửa nhà có cây mận rất sai trái mặc tình mày leo hái ăn. Hay tụi bây ngại đi xe đò tao mượn chiếc xe hơi của thằng bồ tao chở tụi bây đi ? Huyền ngạc nhiên : - Lại còn bồ nữa ? ở đâu vậy ? Chiều tối Hạnh về tới nghe chuyện la lên : - Tụi bây tính về quê ăn Tết không cho tao đi hả ? Bạn bè kiểu gì vậy ? Được rồi, tao sẽ trả xe Cúp, không mướn nhà nữa, tao ở luôn đây với tụi bây được không ? Bỗng dưng mắt Hạnh đỏ hoe. Cuộc đi chơi định vào ngày ba mươi Tết. Sáng sớm đã thấy có một anh thanh niên đem xe tới, theo lời Hà chắc là bồ của cô ta. Anh trạc ba mươi tuổi, vẻ cau có lầm lì, không thấy mở miệng bao giờ. Người tài xế trái lại cứ thấy nói luôn miệng, vừa nói vừa nhảy tưng tưng như uống phải thuốc trừ sâu. - Lẹ lên, lẹ lên - Anh ta hối - Mời các hoa hậu với á hậu lên xe hoa đi tìm hạnh phúc. Bốn cô gái khóa cửa phòng mang đồ đạc lỉnh kỉnh đi xuống thang lầu đem chất ra sau cốp xe, ngồi băng sau chen chúc theo kiểu "xỉa tiền", cô này gần như ngồi trên lòng cô kia. Anh bồ của Hà ngồi băng trước với người tài xế luôn đốt thuốc hút. Chiếc xe nhỏ xíu, mui tròn như chiếc mu rùa, loang lỗ như xe của gánh xiếc, chắc là đang làm đồng. Xe chạy một chút các cô gái bỗng trở lên tư lự, không thấy ai nói năng gì cả. Trong lúc đó người tài xế cứ huyên thuyên, có lúc buông cả hai tay ra mà nói : - Chà, phải chi có thêm một ông con trai nữa coi như đám rước dâu rồi còn gì. Mấy kiều nữ ngồi cho chắc nghe, tôi sẽ chạy với tốc độ của thế kỷ hăm mốt. Tôi đã đọc ở đâu thấy có nói như thế này : Trai gái ngồi chung trong một căn hầm hoặc một chiếc xe như thế này sẽ có dư không khí để thở. Tại sao vậy, âm dương hòa hợp chăng? Nhi kêu lên : - Nhưng em ngộp quá đây nè, em không quen đi xe. Người tài xế nói : - Rồi sẽ quen thôi, là do cô em nhút nhát chưa tìm được trái tim hòa điệu với mình. Bịnh thời đại đó. Anh bồ của Hà lên tiếng càu nhàu : - Bịnh tệ hại nhứt là bịnh nói nhiều, nhứt là với thằng lái xe. Hà hỏi : - Anh học lái hồi nào vậy ? Xe của anh hả ? Anh có vợ chưa ? Người tài xế đáp : - Tôi là người độc thân, tự mình lái lấy cuộc đời mình. - Anh buồn không ? - Hà vẫn dai dẳng - Muốn có bạn không ? Em có cô bạn vẫn phòng không đây nè. Huyền đập vào vai Hà : - Con quỉ ! Mày làm gì như rao bán... Xe đang chạy bon bon bỗng khịt khịt lên mấy cái rồi tắt lặng đi, bánh xe lăn rào rào trên mặt đường. Bốn cô gái nhốn nháo lên. Anh bồ của Hà vẫn ngồi yên hút thuốc. Người tài xế cho xe tấp vào bên đường bước ra huơ tay vui vẻ : - Mời các quí nương vô bóng cây kia nghỉ mát để tôi "mát xa" chiếc xe này một chút, nó là con cưng nên hay nhõng nhẽo vậy thôi. Có ai cho tôi mượn một chiếc khắn thơm nào đó được không ? Bốn cô gái chui ra khỏi khoang xe nóng ngột ngạt đến ngồi dưới bóng một cây điệp nở bông đỏ rực. Có một ngõ dẫn vào một căn nhà lá nằm khuất sau một khóm cây. Vườn trúc trước nhà cành lá khua lao xao dưới gió. Cây cối mọc um tùm, những bông lồng đèn như những đốm lửa đỏ nhấp nháy trong đám cành lá xanh rờn. Một con chim sâu nhỏ như chiếc móng tay chuyền từ cành này sang cành kia. Có mùi thơm dìu dịu của bông gì thoang thoảng trong không khí. Hạnh nghiêng ngó chung quanh, thở dài nói : - Ôi giống quê tao quá ! Hay mình đi lộn đường ? Huyền nói : - Có mày lộn hồn thì có. Mày đâu còn nhớ gì đến làng xóm quê hương có đúng không ? Có tiếng người tài xế hét : - Thôi lên xe, lên xe ! Hà hét trở lại : - Không có hoa hậu hay kiều nữ gì nữa hả ? Chiếc xe chết máy mấy lần nữa, có một lần người tài xế sửa lâu đến nỗi các cô gái tìm được một bãi cỏ chợp mắt được một chút. Có vẻ người tài xế đi chuyến này là để thử chiếc xe của mình. Một lần khác chiếc xe hư và anh ta không lo sửa gì cả lại cứ ba hoa tán chuyện. - Mình có gấp gì đâu cứ đi thong thả ngắm cảnh đồng quê coi như ăn Tết rồi. Sao các cô cứ làm thinh hết vậy? Con gái không nói chuyện như chim không hót vậy. Được, tôi sẽ nói một mình, tôi sẽ đem cuộc đời của tôi ra làm chuyện vui đi đường cho mấy cô. Chắc bốn người đẹp không biết tôi là ai đâu hả ? Tôi là bạn của thằng không biết nói này nè, chúng tôi chiến đấu chung với nhau ở mặt trận Tây Nam, tôi có bị thương mấy lần nhưng không bị sứt mẻ chỗ nào. Sau rồi tôi ra bộ đội đi học lái xe, có bằng lái đàng hoàng, đầu tiên lái xe cho một ông lớn thường xuyên ăn cơm nhà hàng và đi tắm biển, rồi tới lái cho một ông nhỏ hơn một chút, cũng có đi ăn cơm nhà hàng nhưng không có tắm biển, tới chừng hai ông bị "thôi giữ chức" rồi tôi đành phải mua chiếc xe lái "tự cung tự cấp", lâu lâu có mối rước khách ở sân bay lại cũng được ăn cơm nhà hàng. Đó là chuyện chung còn chuyện riêng là như thế này : tôi có vợ, có một con, nhưng trong lúc tôi đi bộ đội con vợ tôi theo ai không biết bồng con dông tuốt sang Mỹ rồi. Vậy là chấm hết, tôi đi sửa xe đây. Anh bồ của Hà vẫn ngồi lặng yên hút thuốc, không thấy có ý kiến gì. cũng không thấy anh nói chuyện gì với Hà, tình yêu kiểu gì vậy không biết. Trời đã xế chiếu. Chiếc xe vẫn chạy khục khịch, rần rĩ, thỉnh thoảng nẩy lên như cán phải gai. Trời tối hồi nào không hay. Đến đoạn rẽ vào không nhìn rõ lộ đá hay lộ đất, cũng không thấy có chòm mả đá nào. Xe chạy rất lâu qua những xóm làng lao xao ánh đèn dầu. Chiếc xe cà tàng của anh bộ đội phục viên có vẻ hợp với con đường lộ đất, từ lúc rẽ vào không thấy hư hao gì nữa, thậm chí có lúc sa xuống một vũng nước nó gầm rú dữ dội rồi cũng vượt lên được. Không cần Hà chỉ dẫn chiếc xe tự động rẽ trái rẽ phải, luồn vào các khóm tre khóm trúc, có lúc băng qua cả một sân nhà ai đó. Xe dừng lại trước một căn nhà lá nằm nép mình dưới một tàn cây xoài tán rộng che cả một khoảng sân. Xe chưa tắt máy Hà đã nhảy tọt xuống nói : - Tụi bây ngồi đây tao vào nhà trước đã. Rồi chạy biến vào trong, chút sau trở ra nói : - Cả nhà về quê ăn Tết hết rồi chỉ còn anh Hai ở nhà thôi. Huyền trợn mắt : - Còn quê nào nữa ? - Quê nội tao - Hà cố giải thích - Trời ơi bao nhiêu năm chiến tranh nhà cửa quê quán lộn xộn hết tụi bay không biết sao ? Thôi vô nhà đi. Anh Hai tao hiền lắm rồi tụi bây sẽ vui cho coi. Họ xách đồ đạc đi vào nhà. Đèn đốt sáng lên. Anh Hai ra đón khách vui vẻ hiền hậu, đúng như Hà nói, chỉ có điều không thấy anh hỏi han chăm sóc gì đến Hà, nên không biết là có phải anh Hai hay không. Căn nhà lá nhỏ nhưng gọn gàng ngăn nắp, sạch sẽ từ trong ra ngoài. Anh Hai người ốm nhưng rắn rỏi, khỏe mạnh, cứ tủm tỉm cười luôn. Hà giới thiệu anh Hai với cả bọn, đặc biệt là với "chị Hai" Huyền. Anh Hai cười rồi lặng lẽ đi châm dầu vào đèn, lấy bánh trái rồi ra sau nhà bắt con gà cắt cổ nhổ lông. Bốn cô gái lôi đồ ăn thức uống từ trong các túi xách ra, có cả pháo, bông giấy. Hạnh "tư sản" lấy chiếc cát - xét vặn hát lên inh ỏi. Mọi người ngồi quây lại ăn uống, cười đùa, không khí phút chốc rôm rả hẳn lên. Hà coi đồng hồ thấy gần tới giờ giao thừa liền sai anh hai đốt một phong pháo, sai "chị Hai" Huyền đốt tiếp một phong pháo nữa, rồi tuyên bố : - Tụi bây cứ vui chơi thoải mái, mình ở đây tới hạ nêu mới về. Về thành phố làm gì ? Anh Hai có rượu không cho tụi em uống đi, hôm nay tụi em phải say một bữa - Rượu đem ra Hà cầm chai rượu rót uống liền một ly, quay sang anh bồ - Anh bồ của em uống với em một ly coi ! Anh Hai cũng cạn ly với chị Hai đi ! Nhi bỗng nói : - Cho em một ly, em cũng muốn uống. - ừ, cho nó uống đi - Huyền nói - Rồi mai tao đưa nó về quê luôn. Hà nói : - Tụi bây phải vui, đây là nhà của tao. Có ai muốn nghe ca sĩ Thu Hà hát không ? - Hà cụng ly với tất cả mọi người, mặt đỏ rần, cất tiếng hát lè nhè sai cả giọng - Em ơi buồn mà chi, tiếc mà chi... - Bỗng chốc Hà có vẻ say, phải ngồi dựa vào vai anh bồ. Anh cúi xuống nhìn Hà, giọng nghiêm nghị : - Kìa Hà uống rượu chi vậy ? Có gì đâu mà... - Em đâu có buồn mà chi, tiếc mà chi... Hà rên rỉ, không rõ nói hay hát. Tiếng pháo nổ rang từng chập từ đầu xóm tới cuối xóm rồi dứt hẳn, cuộc vui của nhóm bạn cũng nhanh chóng lụi tàn, mọi người ngồi yên lặng bên nhau thêm một chút rồi kéo nhau ra ngoài sân, chia thành hai phe trai gái ngồi ở hai góc sân. Hà ngồi giữa đám bạn không la hét nữa cũng không nói gì cứ mở to mắt nhìn trừng trừng vào bóng tối trước mặt, rồi bỗng nằm vật xuống nhắm mắt lại, gối đầu lên chân Huyền. Huyền cúi xuống đưa tay vuốt tóc Hà nói giọng âu sầu : - Con quỉ Hà này hay bày đặt chuyện, nó chẳng có nhà cửa với anh Hai gì đâu. Nhi ngơ ngác nhìn quanh : - Vậy nhà ai đây ? - Không biết. Thì một căn nhà nào đó vậy thôi - Huyền nói - Nhưng như vậy càng hay, tao sẽ nhớ mãi đêm giao thừa này, một đêm đón năm mới không biết ở đâu. Tụi mình chơi ở đây cả tuần cũng được. Hạnh nói : - Không, mai về thôi. Tao có công chuyện. Tụi bây dòm tao cái gì ? Tao thôi làm ở hãng nước ngoài rồi.Tủi nhục lắm không hay ho gì đâu. Ngày mai tao sẽ về thành phố, ngày mốt tao sẽ về quê luôn. Hà chợt mở mắt ra hét lên : - Về đâu ? Không về đâu hết, ở đây chơi với tao. Tao sẽ cưới chị Hai cho anh Hai, hai người đẻ con tao nuôi hết cho. Tao sẽ không lấy chồng, anh bồ tao sẽ gả cho con Hạnh. Còn con Nhi thì về quê. Phải nghe lời tao, đó là phân công xã hội. Hà lại nhắm mắt. Huyền xuỵt mấy bạn : - Để yên cho nó ngủ. Tội nghiệp nó quá. Mình cũng ngủ đi. Anh Hai đốt đống un khói thơm quá kia kìa, lâu rồi tao mới ngủ cạnh đống un như thế này. Góc đằng kia ba người con trai ngồi trên một gốc cây hút thuốc, lửa đỏ lập lòe trong bóng tối. Người tài xế nói với anh Hai : - Mày rút về quê như vầy coi bộ yên quá hả ? Nhưng có buồn không ? Nhớ trung đội mình hồi xưa vui quá, thằng nào thằng nấy trẻ măng. Giờ đã băm mấy hết rồi. Tụi mình sao lận đận quá. Tao may góp được tiền mua chiếc xe, nhưng cứ đi vào sân bay rước ba thằng Việt kiều hoài cũng thấy sầu đời. Còn thằng quỉ này - Anh mồi thuốc từ tay anh bồ của Hà - Mày cứ sống lông bông hoài hả ? Có định cưới cô nàng thuốc súng kia không? Anh bồ của Hà đáp : - Cưới cái gì, cô ta nhờ tao giả làm bồ đó. Nó là người yêu của thằng T. cùng đại đội với mình tụi bây không nhớ sao ? Thằng T. chết rồi, trong trận tao bị thương ở đầu đó. Trước đó hai đứa ăn ở với nhau, con nhỏ có thai chưa kịp cưới thằng T. đi nghĩa vụ nên cái thai phải bị phá. Hôm tao về báo tin thằng T. chết, con nhỏ khóc nấc lên rồi đánh tao liên hồi : "Trời ơi anh T. chết rồi con tôi cũng chết, tôi sống với ai đây ?" Dạo đó nó như điên, bà con họ hàng lại không có, tao không biết dỗ dành làm sao... Thôi mấy con nhỏ ngủ hết rồi mình cũng ngủ đi, những chuyện như vậy kể làm sao cho hết... 11-1992 lon to THẾ GIỚI SEX

Bốn Con Chó

lon to Bốn Con Chó Tác giả: Vĩnh Quyền Tháng Bẩy Âm Khi tôi chưa sinh ra, nội đã đưa Nhưng Thẩm về nhà. "Nhưng" là đẳng cấp cao do vua ban cho nghệ sĩ nhà hát tuồng cung đình. Khi Quản ca, viên chức quản lý ban hát, sửa đổi nội dung kịch bản cổ với mục đích nịnh vua, Nhưng Thẩm quyết định uống dầu lạc nóng trong bát đèn sau một đêm thức trắng để không phải hát điều xằng bậy. Thanh quản hủy hoại, Nhưng Thẩm bị đuổi khỏi nhà hát tuồng cung đình như một phế nhân, lang thang kiếm ăn ngoài chợ. Nội thời trẻ thường rước đào hát về nhà tổ chức cuộc vui. Với Nhưng Thẩm thì khác. Rước về nuôi dưỡng vì nghĩa khí giang hồ. Khi tôi bắt đầu hiểu biết đôi chút, nội đã qua đời, nhưng Nhưng Thẩm vẫn còn sống. Tất nhiên ba tôi không thể yêu quý ông lão bằng nội. Nhưng Thẩm chẳng thiếu cái ăn cái mặc nhưng cứ buồn như lá héo. Chỉ còn mình tôi thỉnh thoảng bắt chuyện vì ông lão là một kho chuyện ly kỳ. Năm tôi rời Huế đi học tận Sài Gòn, Nhưng Thẩm càng buồn. Tôi xin con chó nhỏ đem về cho lão có bầu có bạn. Lão đặt tên Vá, theo ngoại hình của nó. Không dè tôi đã hại lão. Gần một năm sau tôi nhận được thư ba tôi báo tin Nhưng Thẩm đột ngột qua đời. Chiều chiều ông lão thường ra nhà hóng mát ở vườn sau. Nhà này kiến trúc mái hình lục giác và chỉ có một cột. Lão thích nhâm nhi chén rượu ngang, ngắm mặt trời lặn trên sông Hương ở đấy. Con Vá thường bị chủ xích vào cột, nằm nghịch mẩu xương thừ. Nó lớn lúc nào không hay. Một ngày tháng bảy âm năm ấy, con Vá động cỡn, bỗng quên chủ, quên khúc xương, quên sợi xích, vụt lao theo mùi hương con chó cái vật vờ bên kia hàng rào chè tàu. Cây cột gãy, mái lục giác sụp đổ, chôn luôn lão Nhưng Thẩm xấu số trong đống đổ nát. Cuối thư, ba tôi viết một câu, dường như cho chính tình cảnh sa sút của gia đình tôi bấy giờ: Con biết không, cây cột hai người ôm sơn son thếp vàng ấy hóa ra mục ruỗng từ lâu lắm rồi... Hồi nhỏ, tôi được nghe Nhưng Thẩm kể nhiều chuyện ly kỳ mà mãi sau mới hiểu thấu ý nghĩa. Dưới đây là một trong số chuyện như thế. CÁI CHẾT CON CHÓ HOANG Sử quan dường như thức trắng đêm. Dù vậy, trông ông không có vẻ gì mệt mỏi khi đón ngày mới. Trái lại, nỗi phấn khích còn lộ trên đôi mắt tươi vui của ông. Đêm qua ông đã phóng bút chép nốt một thiên quan trọng trong bộ thông sử. Mọi việc hầu như trôi chảy. Riêng trường hợp quan tướng quốc triều trước là có phần khó xử. Trong số tài liệu gồm nhiều nguồn, nhiều loại liên quan hành trạng quan tướng quốc có những điểm khác nhau. Khổ nỗi, mức độ khác nhau không chỉ ở tình tiết mà lại quyết định cả cách đánh giá một nhân vật lịch sử quan trọng. Các bài hát dân gian và truyện truyền kỳ xem tướng quốc như một kẻ gian hùng. Trong khi văn sách của triều trước ca ngợi ông như một bậc anh hùng. Cuối cùng, sử quan đã chọn cách đánh giá của những đồng nghiệp tiền bối. Vả lại bộ thông sử cần hoàn tất trước lễ đại khánh. Điều đó hẳn sẽ làm hoàng thượng vui lòng. Dùng xong bát cháo gà nóng sốt, sử quan sai người hầu bày bàn trà trước hàng hiên. Ông muốn hưởng không khí thanh sạch ban mai, được thư giãn đôi chút trước khi nhập triều. Từ đây, ông có thể đưa mắt ngắm vườn hoa trong dinh phủ, nhìn ra con đường cái chạy dọc tường vi, trông xa tận những ngọn đồi thông xanh mát phía đông kinh thành. Buổi sáng yên tĩnh của sử quan chấm dứt đột ngột. Có tiếng reo hò từ phía Văn miếu vọng lại, mỗi lúc một gần. Lát sau đã nghe rõ tiếng chân nhiều người rầm rập trên đường cái. Ông chưa đoán được việc gì đang xảy ra đã trông thấy cảnh náo nhiệt bên ngoài tường vi dinh phủ. Đặt chén trà uống dở xuống bàn trà, ông đứng lên để trông cho rõ hơn. Một tốp người cầm gậy gộc đuổi theo một con chó. Họ vừa đánh vừa quát ầm ĩ: “Chó dại! Đánh chết nó đi!”...Con chó và tốp người kia vụt khuất sau mành lá rậm của rặng liễu. Tiếng kêu ăng ẳng đau đớn tuyệt vọng của con vật, tiếng gào thét đến man rợ của con người, tiếng gậy gộc giáng xuống mặt đường lát đá, xuống thân con chó dội vào tai sử quan. Lát sau, đám đông hiếu kỳ cùng những người đánh chó tản ra với những gương mặt hể hả pha lẫn hoảng sợ. Con chó đã chết. Chuyện vặt ngoài đường chẳng đọng lại lâu trong tâm trí sử quan. Ông đang bận bịu với những điều to tát hơn nhiều... Tối hôm ấy, trong bữa yến thưởng trăng tại Vọng nguyệt lâu vườn thượng uyển, hoàng thượng đích thân thù tiếp các quan cận thần. Trong khi chờ hoàng thượng giá lâm, các quan tán chuyện rôm rả. Tình cờ, cái chết con chó ban sáng trở thành đề tài lôi cuốn mọi người. Viên sử quan dửng dưng, không buồn bắt chuyện. Nhưng các mẩu đối thoại cứ lọt vào tai ông. Thượng thư bộ lễ chép miệng: "Hình như là chó dại..." Đông các điện đại học sĩ không bằng lòng cách nói mơ hồ ấy của đồng liêu: "Còn hình như gì nữa? Con chó hoang này dại thật rồi. Chính mắt tôi trông thấy lưỡi nó thè ra cả tấc, nước bọt nhễu trắng mõm." Tả thừa tướng lên tiếng: "Sao lại chó hoang, phải có chủ chứ? Các ông có thấy bộ lông nó mượt thế nào chưa?" Tiền thị vệ giọng xởi lởi: "Bẩm phải, tôi cũng nghĩ vậy." Hàn lâm cung phụng gật gù tiếp lời: "Chính mắt tôi trông thấy vòng da đeo trên cổ nó..." Bỗng ai đó đặt câu hỏi ngớ ngẩn: "Kẻ nào là chủ con chó he?" Không quan cận thần nào biết được. Vọng nguyệt lâu lặng đi chốc lát. Sử quan trầm ngâm nhìn ánh trăng rằm lung linh tự hỏi: "Có phải bộ lông con chó óng mượt? Có phải cổ nó có đeo vòng da?...". Sáng nay đã thấy nó chạy ngoài tường vi dinh phủ. Thế mà bây giờ mình không dám chắc một điều gì cả. Kể cũng buồn cười thật!" Hoàng thượng vẫn chưa giá lâm. Câu chuyện phiếm lại tiếp tucï, có phần sôi nổi hơn. Các quan lớn đang bàn cãi về cái chết của con chó. Đông các điện đại học sĩ: "Nó đã cắn nhiều người, đánh chết thế là hay." Thượng thư bộ binh: "Đánh là thế nào? Không đuổi kịp, bọn lính giản đã bắn mất phát tên mới giết được nó đấy chứ." Tiền thị vệ vẫn giọng xởi lởi: "Bẩm phải. Tôi biết trong đội lính giản có nhiều cung thủ tài ba." Hữu thừa tướng gạt đi: "Toàn lời đồn huyễn. Không có cung tên nào hết. Con chó chỉ bị đánh bằng gậy thôi!" Vọng nguyệt lâu như sôi lên. Các quan cận thần chia làm hai phe, tranh cãi ầm ĩ, không ai chịu ai. Tả thừa tướng phân giải: "Các ông đều đúng cả. Lính giản bắn trúng con chó thực. Nhưng nó chưa chịu chết ngay. Mọi người phải vây đánh bằng gậy một lúc." Câu chuyện chưa ngã ngũ thì hoàng thượng giá lâm. Sau khi ra hiệu miễn lễ cho các quan cận thần và ban lệnh khai yến thưởng trăng, hoàng thượng vui vẻ báo tin: "Các ngươi biết không? Sáng nay, một ngự lâm quân của ta đánh chết con chó dại bằng tay không!" Không ai bảo ai, các quan nhất loạt đứng lên, nâng chung rượu khai vị bằng hai tay, đồng thanh: "Thật không hổ danh ngự lâm quân!" Trên đường về dinh phủ, sử quan trầm ngâm ngồi trên kiệu, lòng như có lửa đốt. Câu chuyện về cái chết con chó hoang trong bữa yến khiến ông vô cùng bối rối, hoang mang. Sự việc mới xảy ra ban sáng, ngay trước mắt ông, thế mà đâu là sự thật? Chính ông cũng không thể xác định. Câu chuyện có vẻ mơ hồ chẳng khác vạn vật đang ẩn ẩn hiện hiện dưới ánh trăng huyền ảo trước mắt. Chao ôi, vậy thì, việc hiểu đúng tư tưởng, hành trạng một nhân vật lịch sử sống cách ông non thế kỷ như quan tướng quốc triều trước còn khó khăn nhường nào? Sử quan bỗng cất giọng gắt gỏng mấy chú lính khiêng kiệu: "Nhanh lên nào!" Rồi ông mệt mỏi nhắm nghiền đôi mắt. Không phải ông đang ngấm rượu hoàng thượng ban. Ông đang nôn nóng trở về thư phòng. Đêm nay, hẳn phải thay bấc đèn nhiều lần. Ông muốn chiêm nghiệm những gì đã viết trong bản thảo bộ thông sử... ÁO BÀ BA BÀ BA Không phải tôi viết thừa chữ đâu nhé. Ấy là chiếc áo bà ba của bà Ba. Của mẹ tôi. Người phụ nữ thứ ba trong đời ba tôi. Tuy thứ ba nhưng ở lĩnh vực nào so với hai bà trước đấy thì đều nhất hết. Trẻ nhất, đẹp nhất, làm kinh tế giỏi nhất, là người duy nhất đẻ ra một thằng con trai, và tất nhiên được ba tôi yêu cưng nhất...Chỉ có cái nhất cuối cùng là đau đớn cho cha con tôi: mệnh yểu nhất. Mẹ tôi mất khi mới ba mươi hai tuổi. Năm ấy tôi lên mười. Ba tôi không phải là người được đào tạo để làm nhà nghiên cứu nhưng ông có thói quen cất giữ tài liệu, nhất là kỷ vật. Chỉ trong phạm vi cá nhân, gia đình thôi. Từ những bức thư ngả vàng đến bàn cờ tướng của nội tôi. Ông cụ đang chơi cờ với bạn, thấy mệt rồi mất ngay sau đó. Ba tôi dùng keo dán giữ nguyên bàn cờ với thế cờ dở dang cuối cùng của ông cụ. Kỷ vật này được chưng cất trong một tủ kính tại gian thờ phụng. Còn với mẹ tôi, ông cất giữ gần như nguyên vẹn những vật dụng thân thiết. Đáng nói là, theo tập tục, y phục của người mất phải "hóa", nghĩa là phải đốt bỏ đi. Thếâ nhưng ba tôi lén giữ được một chiếc áo bà ba cũ của mẹ tôi. Mãi về sau, khi kinh tế gia đình sa sút, không giữ được ngôi biệt thự với vườn cây lưu niên, phải chuyển về nhà cũ của nội, mới lộ ra bí mật này. Từ ngày chuyện đã công khai, cứ sau những tháng mưa dầm xứ Huế, ba tôi lại trịnh trọng đem chiếc áo bà ba của bà Ba ra hong nắng mới dưới mái hiên. Những lúc ấy ông thích ngồi một mình với áo bà Ba và với thuốc lá... Khi ba tôi không còn đủ sức khỏe để làm những gì ông muốn, tôi và vợ tôi mới được hong áo mẹ tôi trong những ngày nắng đẹp. Tất nhiên là dưới sự giám sát của ba tôi. Về làm dâu chưa được mấy ngày thì vợ tôi đã phải khóc với chiếc áo cũ. Hôm ấy trời đất chuyển mùa, ba tôi nằm thở mệt nhọc trên sập gụ, nhìn mông lung qua ô cửa sổ, bỗng ông nhận ra những tia nắng mới xuất hiện, đậu vàng trên những tán lá còn sũng nước mưa. Ông gọi con dâu mở tủ lấy áo của bà Ba ra hong. Vợ tôi tuân lệnh. Lần đầu tiên trông thấy chiếc áo ấy, vợ tôi che miệng cười khúc khích. Chuyện không qua được mắt ba tôi. Nổi cơn giận lẫy bất ngờ, ông chống gậy tự mình hong áo. Vợ tôi hoang mang, chỉ biết khóc với tôi sau đó. Thực ra, ai thoạt trông thấy chiếc áo bà ba của bà Ba cũng có thể bật cười như cô con dâu mới của bà. Nó kỳ dị với hai cái túi không cân phân. Bên phải kích cỡ bình thường, không có gì phải bàn. Bên trái mới ngộ, lớn hơn bên phải đến chừng năm lần! Rõ là không có tay thợ may nào vụng đến thế. Mà là may theo “mốt” của người đặt hàng. Và tay thợ may mới là người bật cười đầu tiên. Đó là chiếc túi đặc biệt dành cho con chó phốc tí hon rất cưng quý của mẹ tôi trong những năm cuối đời. Túi bên phải đựng tiền lẻ và các thứ lặt vặt cần thiết như xâu chìa khóa, bật lửa như mọi người...Còn túi bên phải thì không giống ai. Con chó sau những lúc chạy rông trong nhà ngoài sân là nhảy phốc vào túi bên trái của bà mẹ người. Mẹ tôi xưng mẹ con với nó. Ngọt ngào thương cảm không kém gì với tôi. Ba tôi bảo bà Ba “địu” con phốc đi chợ như phụ nữ dân tộc “địu” con lên rẫy. Có khi ông lại ví bà Ba là con căng-gu-ru bên hoang mạc châu Úc...Con phốc láu lắm, nó đặt hai chân trước lên miệng túi, đầu thò hẳn ra ngoài, vênh váo nhìn chung quanh, biết mình được bảo vệ bởi người có quyền lực nhất trong ngôi nhà. Không ai bảo ai nhưng ba tôi và tôi có lúc phải ganh tị với con chó nhỏ xíu bằng chai bia lùn ấy. Sau này, chúng tôi nhìn nhận rằng nó đáng được như thế. Ấy là lúc mẹ tôi lâm chung. Mỗi cây trong vườn cây lưu niên của gia đình đều được chịu tang bởi những dải khăn sô buộc vào cành lớn nhất. Trên hai mươi dải khăn trắng bay vật vờ trong ánh tà dương hoặc trong làn sương mai ảm đạm se lạnh làm tuổi lên mười của tôi nhận thức sâu hơn, cụ thể hơn thế nào là nỗi đau mất mẹ. Sinh vật nhỏ bé nhất trong gia đình chịu tang bà Ba là con chó. Nó được ba tôi âu yếm quàng dải khăn sô bé tí vào cổ. Trông thật ngộ nghĩnh. Nhưng không ai dám cười trong những ngày ấy. Người Huế xưa cho cây trong vườn chịu tang chủ vì hai lẽ. Chia sẻ, hoặc nhân lên nỗi đau mất mát người thân. Và để cho cây không tàn héo chết theo người. Tất nhiên là phải người trồng ra chúng, chăm sóc chúng. Hoặc là người quan trọng nhất trong gia đình, là linh hồn của ngôi nhà, vườn cây... Cây vườn tôi không chết vì được chịu tang bà Ba. Nhưng con chó nhỏ thì không gì cứu được. Nó không sủa, không ăn và nằm chết lẳng lặng trong góc phòng bà Ba ba ngày sau tang lễ, đúng vào hôm cúng mở cửa mả. Cứ mỗi dịp chuyển mùa, từ mưa sang nắng, mỗi lần hong áo bà ba bà Ba chúng tôi không chỉ nhớ người, nhớ cả con vật bé bỏng, mà khoảng trống của túi áo kỳ dị kia luôn gợi nhớ... "Ô VÀNG Ô!" Thế rồi cũng đến cái ngày ấy. Ngày vợ chồng tôi chia tay cuộc sống mười năm trong khu tập thể đất hẹp-người đông-lắm chuyện.Với số tiền chắt chiu từ đồng lương và nhuận bút còm cỏi chúng tôi mua được một ngôi nhà nhỏ ở ngoại ô. Ngót hai chục năm rồi và vốn là người không có duyên với các con số nên ngày dọn đến nhà mới thì tôi không còn nhớ chính xác. Vợ tôi khác. Cô đã trịnh trọng cất tờ lịch hôm ấy vào ngăn kéo tủ. Trong đó còn có mấy tờ lịch "lịch sử" nữa mà tôi không tài nào nhớ nổi. Nhưng chuyện xảy ra trong ngày dọn nhà mới thì tôi không bao giờ quên... Mở màn chiến dịch làm đẹp tổ ấm do vợ chỉ huy, tôi bắc chiếc ghế đẩu tháo gỡ bức ảnh chân dung người chủ cũ vẫn còn treo trên tường: cô Hai, người đàn bà đơn độc vừa qua đời cách đấy mấy tháng. "Vị trí ấy xứng đáng dành cho ảnh đám cưới của tụi mình". Vợ tôi nói thế. Ghế thấp, rướn cả người mới chạm đến ảnh cô Hai. Chân run dữ vì chẳng mấy khi tôi phải leo trèo như thế. Bỗng đâu một con chó vàng gầy còm lấm bẩn đột ngột xông thẳng vào phòng khách, không kịp sủa gâu gâu báo động đã tớp ngay chân tôi. May chỉ rách tới lớp vải quần jean thôi. Nhưng chừng đó cũng đủ cho tôi chết khiếp, suýt té nhào xuống sàn. Vợ tôi từ nhà bếp kịp xách chổi xông lên ứng cứu. Con chó bỏ chạy mất hút. Qua cơn sợ, tôi leo lên ghế, tiếp tục công việc. Khi tay tôi vừa khẽ chạm vào bức chân dung cô Hai, con chó lại xuất hiện và lao vào tấn công ngay. Lần này đã thủ sẵn thanh gỗ dài, vợ tôi vừa giáng trả quyết liệt (nhưng chỉ đánh trúng vào không khí) vừa la bai bải (vì quá hãi). Tôi nhảy phóc xuống, chụp cái ghế đẩu phang đại. Trúng đòn đau, con chó vàng kêu ăng ẳng, cúp đuôi chạy biến. Vợ chồng tôi lặng lẽ nhìn nhau sau trận chiến không chờ đợi. Hai gương mặt thất thần, lấm tấm mồ hôi. "Nghỉ chút xem sao...". Tôi bảo. "Kìa anh, nó quay lại kìa!". Vợ tôi thì thào, một tay đặt lên ngực, mắt nhìn trân trối ra đường. Cái bóng vàng ám ảnh lượn lờ đầy cảnh giác ngoài cửa. Nó chọn một khoảng cách an toàn nằm bẹp xuống, vừa trông chừng vào nhà vừa liếm vết thương. "Đóng cửa lại, anh". Vợ tôi đề nghị. Nhưng tôi đã điên tiết xông ra với thanh gỗ, quyết ăn thua đủ với con chó vô cớ gây sự người hiền lương. Nó vụt nhỏm dậy, chụm bốn chân thủ thế, mắt vằn đỏ những tia máu giận dữ, miệng nhe hết răng trắng hếu. Tôi và nó vờn nhau lừa miếng. Bà cụ hàng xóm bước ra: "Cậu đừng đánh con Vàng tội nghiệp, nó hiền lắm!" Nễ tuổi tác của bà, tôi nén được một câu trả lời đốp chát "Thế mà hiền đấy à?". Thấy tôi còn uất ức, bà cụ kéo tôi vào nhà tôi, chỉ lên bức ảnh chân dung thiếu phụ, phân giải: "Cô Hai đây sống một mình với con Vàng. Người đứng ra bán nhà cho anh chị là cháu của cô ấy. Khi cô Hai chết, anh chàng thừa kế này đến dọn sạch các thứ, chỉ quên mỗi bức ảnh! Từ ngày đó, con Vàng đi kiếm ăn quanh quẩn trong xóm rồi về nhà nằm ngó lên ảnh chủ rên ử ử như con nít khóc, thật tội..." Vợ tôi lau nước mắt, lẳng lặng xuống bếp làm đĩa cơm, mang ra đường, đặt trước mặt con Vàng. Nhưng con vật giật mình cảnh giác thối lui, cúp đuôi bỏ đi thẳng. "Ô Vàng ô!...". Bà cụ gọi giật. Con Vàng dừng chân, ngoảnh lại, rồi mon men đến gần bà cụ, mắt lấm lét trông chừng vợ chồng tôi. Bà cụ khẽ đẩy đĩa cơm về phía nó. Con chó vục mõm ăn ngấu nghiến. Tôi đi công tác ba hôm sau trở về, bất ngờ thấy vợ đang tắm cho con Vàng trước sân. Cô liến thoắng: "Gọi mãi nó vẫn sợ, em bắt chước bà cụ: Ô Vàng ô! Thế là nó chịu phép. Có lẽ hồi còn sống cô Hai vẫn gọi nó như thế..." Bước chân qua ngưỡng cửa, tôi bắt gặp đôi mắt của cô Hai trên tường. Vợ chồng tôi quyết định giữ nguyên bức di ảnh ấy cho con Vàng. Đôi mắt của cô rưng rưng nhìn ra sân, nơi con Vàng đang rên lên ư ử vì được tắm táp như ai. BỮA TIỆC MÀU HUYẾT DỤ Có người bảo Huế là thành phố của những người theo đạo Phật. Kể cũng có lý. Bình minh và hoàng hôn Huế xao xuyến với những hồi chuông u minh trầm mặc của trên 60 ngôi chùa trong một không gian gắn bó. Và cũng có thể vì người Huế có truyền thống không ăn thịt chó, một đặc điểm trong sinh hoạt của những người theo đạo Phật. Còn nhớ năm nào đã xa ở làng hoa trái Nguyệt Biều, trên ban công căn gác gỗ nhà thờ họ Lê nhìn ra quãng sông Hương tĩnh mịch gần như đối diện chùa Linh Mụ, trong áng sáng nhập nhoạng trước lúc hoàng hôn buông xuống thật sự, tôi đang gõ máy chữ viết nốt những trang cuối cuốn tiểu thuyết đầu tay, bỗng có tiếng gọi giật vọng lên từ ngoài cổng. Bực mình thật. Tôi chờ đợi cái dấu chấm hết này đã hai năm ròng rã. Nhưng đấy lại là tiếng gọi lạc giọng của Mỵ, cô bạn thời mài đũng quần trên ghế giảng đường đại học văn khoa, cũng là người cho tôi sử dụng ngôi nhà thờ họ Lê làm "trại sáng tác". Mà với tôi bấy giờ, cuốn tiểu thuyết và Mỵ không biết "ai" quan trọng hơn. Tôi vội chạy xuống cầu thang gỗ nhá nhem tối, qua gian thờ rộng thênh lạnh giá, qua vườn hoa già cỗi lát đá bát tràng xanh rêu để gặp Mỵ. Hẳn có chuyện khác thường vì giờ này đáng ra Mỵ phải ở nhà lo bữa cơm tối của gia đình, cách ngôi nhà thờ họ khoảng hai cây số, cũng bên bờ sông. "Anh cứu nhà em với!" "Nhà em", chồng Mỵ, là Thạch, ông bạn vong niên của tôi. Tôi trở thành bạn của ông khi ông cưới Mỵ. Ông Thạch thỉnh thoảng vẫn cứu tôi trong vài trường hợp, vài tình huống. Còn tôi không bao giờ dám nghĩ có lúc mình sẽ cứu được ông Thạch. Tôi chẳng có gì cả, chẳng là cái gì cả trong khi ông ấy là một đại gia, về kinh tế cũng như về quan hệ xã hội. Cho nên khi Mỵ nhìn tôi bằng ánh mắt cầu xin và thốt ra lời kêu gọi như thế tôi chỉ có thể đoán già đoán non rằng ông Thạch bị đột quỵ hay đại loại như thế và Mỵ cần tôi giúp đưa đi bệnh viện cấp cứu chẳng hạn. Biệt thự Gia Khánh chìm trong bóng tối. Đúng hơn là hiện ra dưới sáng lập loè của một màu hồng ma thuật bởi mấy chục ngọn đèn lồng lớn nhỏ. Mỵ le te đưa tôi ra thẳng vườn hoa phía sau, nơi tiếp giáp bờ sông. Một bàn tiệc khéo bày biện dưới ánh nến còn nguyên mà thực khách duy nhất là chồng Mỵ. Ông Thạch lặng lẽ ngồi nhìn ra mặt sông tối mịt, không nhận ra có tôi và Mỵ đã đến sau lưng. Hai cây số đường xe máy từ nhà thờ họ Lê đến biệt thự Gia Khánh đủ cho Mỵ cung cấp thông tin sơ bộ về "ca cấp cứu" này. Ông Thạch muốn ký một hợp đồng lớn với công ty khai thác chế biến gỗ Đài Loan. Có đối thủ mạnh cạnh tranh, ông Thạch tìm mọi cách để lấy được lòng giám đốc phía đối tác. Khách muốn ăn chơi kiểu nào ông cũng "chìu" được, "chơi" được. Chỉ riêng cái ao ước nhắm món thịt chó của ông chủ Tàu là ông Thạch bó tay. Những năm đầu 80 của thế kỷ 20 ở thành phố Huế thật khó bói ra một bữa tiệc thịt chó. Yêu cầu lại đột xuất, ngay trong ngày dự kiến ký hợp đồng, cũng là ngày phía đối tác rời khỏi Huế. Lái xe của ông chủ Tàu tham mưu rằng hắn sẽ làm đầu bếp bảy món chó thật đúng khẩu vị Đài Loan, chủ nhà chỉ việc cấp ngay một con cầy tơ. Thế là ông Thạch yên tâm mời khách dự buổi dạ tiệc chó tại vườn hoa biệt thự Gia Khánh, bên bờ sông Hương. Trưa hôm ấy, ông Thạch rủ con Bim đi tắm. Con chó vui mừng vẫy đuôi, liếm vào tay ông tỏ lòng cám ơn. Bim rất thích trò đánh vật với chủ trong dòng Hương lăn tăn sóng mát lành vào những trưa hè oi nồng. Nhưng lần này ông Thạch dìm Bim xuống nước một cách khác thường. Nó mở lớn đôi mắt kinh ngạc nhìn chủ rồi vùng vẫy dữ dội theo bản năng sinh tồn. Không đủ sức kềm giữ con vật, ông Thạch lắp bắp mãi một câu: "Bim ơi, cứu ba đi con!". Không hiểu con vật đuối sức hay hiểu thấu lời khẩn cầu của chủ mà buông xuôi chịu chết đuối...Lái xe đi rước ông chủ Tàu tại khách sạn sau khi hắn đã trổ tài chế biến bảy món cầy tơ. Mỵ được ông Thạch cử đi theo để đón khách. Xẩm tối, Mỵ trở về một mình. Cô thấy chồng diện bộ đồ lớn ngồi chờ bên bàn tiệc đặc biệt dưới ánh đèn lồng và nến, "gu" ánh sáng của ông chủ Tàu. Nhưng sau khi nghe tên lái xe kể chuyện con Bim ông chủ Tàu đã khéo léo từ chối bữa tiệc, đồng nghĩa với việc từ chối ký hợp đồng kinh tế với ông Thạch. Mỵ đã vội nhờ tôi "cứu" ông Thạch khi thấy chồng rơi vào trạng thái mất trí. Có thể vì cái hợp đồng. Có thể vì con Bim. Có thể cả hai. Rất tiếc, trong trường hợp này, tôi đã không thể giúp đỡ gì cho Mỵ. Bây giờ, hơn hai mươi năm sau, trở lại Huế, trên đường đi loanh quanh, thỉnh thoảng tôi vẫn bắt gặp biển quảng cáo cầy tơ bảy món. Ôi, giá như những ngày đầu đất nước mở cửa làm ăn kinh tế mà mấy tiệm cầy tơ này cũng mở cửa kịp thời ở Huế, thành phố có truyền thống không ăn thịt chó, thì đâu đến nỗi con Bim phải chết uổng, ông Thạch phải mất trí, Mỵ phải đau lòng, tôi phải bất lực trước tất cả những oan khiên ấy? lon to THẾ GIỚI SEX

Bốn Khúc Một Bản Tình Ca

lon to Bốn Khúc Một Bản Tình Ca Tác giả: Hồ Anh Thái Giới thiệu nhân vật A - Chàng Chàng vốn là một người làm nghề xoa đầu trẻ tại một trường sư phạm mà tới 95% học trò là nữ. Sau mười năm có vẻ lăn lộn với nghề (và cả với đám học trò thân yêu) mà chẳng thấy nên cơm nên cháo gì, vào một ngày đẹp trời chàng quyết định dứt áo ra đi tìm một chân trời mới. Số phận run rủi đã xô đẩy chàng tới một văn phòng báo chí có cái tên rất ấn tượng là “Chân trời lúc rạng đông” đến từ tận đất nước Phù tang, với chức danh được in trang trọng ngay chính giữa tấm cạc visit bằng tiếng Anh là “Press Servant”. Nhiều người cứ thắc mắc rằng tại sao một con người thông minh sáng láng như chàng lại chưa tìm đưọc người nâng khăn sửa túi trong số mười mấy khoá học trò mà chàng đã bỏ bao công sức vừa dạy vừa dỗ đó. Hay là chàng có vấn đề bệnh lý gì đó tế nhị mà các cô gái không dám gần? Hoàn toàn ngược lại. Theo lời chàng tâm sự, trong một lần nhậu hơi quá chén, cái hành trang tình yêu của chàng cũng nặng ra phết, nói phải tội chứ nếu chàng xuất cảnh theo diện đoàn tụ gia đình “hụt” (nghe bảo một trong những cô học trò yêu của thầy đi xuất khẩu lao động sang Nga hiện vẫn đang đánh hàng chủ yếu là đồ lót từ Mát về các vùng quê xa xôi) thì chắc chắn phải thuê hẳn một công tai nơ loại 40 feets chiều cao mới chứa hết. Thế nhưng cái số chàng nó mạt, cứ muộn nhất là đến cuối năm học thầy lại đường thầy, trò đường trò. Cũng chẳng dám bận tâm lắm bởi “con chị nó đi, con dì nó lớn”, cứ mỗi năm chàng nhúp một cô. Xin phép được trích dẫn ra đây một vài mối tình để khỏi mang tiếng cho chàng là người điêu ngoa, ăn không nói có, một căn bệnh nghề nghiệp mà thiên hạ thường ác ý gán cho những người làm báo như chàng. Mối tình thứ nhất đến khi lần đầu tiên chàng bước chân lên bục giảng. Cái giọng trầm, ấm áp và cài phong thái có vẻ phớt học trò của chàng khi dạy một bài thơ tình nổi tiếng của Đại Thi hào Puskin đã làm rung động trái tim khờ dại của một thôn nữ ngây thơ lần đầu tiên bước chân ra Thủ Đô. Suốt năm học đó, trong suốt các tiết học cô nàng chẳng làm được điều gì khác ngoài việc ngước cặp mắt đắm đuối nhìn thầy, đôi môi luôn mở trong tư thế sẵn sàng ăn vã từng “lời vàng ý ngọc” phát ra từ miệng thầy. Sự đam mê đến cuồng dại của cô học trò như tiếp thêm lửa cho những lời giảng của thầy, làm bùng lên tình yêu nghề nghiệp vốn đã rất dễ bén lửa của một thầy giáo mới ra trường, và kết quả là hầu như tiết nào thầy cũng bị cháy giáo án. Mối tình đầu bốc lửa đó bị dội một xô nước rửa bát, chuyện thường ngày ở khu nội trú sinh viên, vào một buổi chiều cuối năm tây. Hôm đó, cô nàng vào phòng thi vấn đáp, nói tiếng “lào” ra tiếng “ý”, bị đánh trượt, phải trở về quê làm nông nghiệp. Vài tháng sau, chắc vì vẫn chưa nguôi ngoai được cái kỷ niệm vừa giàu chất thơ vừa phũ phàng của mối tình đầu, nàng quyết định lấy quách một anh chồng làm nghề xe thồ. Nghe đâu bị ngược đãi kinh lắm: cứ trung bình một tuần một trận đòn, nửa tháng một lần bị dìm xuống ao, và một quý một lần bị quấn tóc treo lên xà nhà. Kể cũng tội, vì nàng chăm ơi là chăm: chăm làm, chăm ăn, chăm khuyên nhủ chồng, chăm răn dạy con cái, chăm góp ý với hàng xóm, và cả chăm đẻ nữa (thấy bảo hai vợ chồng đã có với nhau năm thằng cu cái hĩm rồi). Phải mỗi cái tính lơ đễnh: ai đời đang ngồi quấy cám lợn, hay nhồi bánh đúc vào diều vịt cho chồng thồ ra Hà Nội bán, thỉnh thoảng lại đần mặt ra, rồi bất thần ngâm vống lên mấy câu thơ (thầy đã đọc tặng khi nàng từ tận quê lên trường mời thầy về ăn cỗ cưới), làm thằng chồng cứ tưởng xỏ xiên gì nó, nó đánh cho. Thương lắm! Xin được mạn phép thầy được đọc ra hai câu thơ đó ở đây để mọi người cùng phán xét cái bệnh ghen vô lý của một gã chồng thượng cẳng chân hạ cẳng tay: Tôi yêu em, yêu chân thành, đằm thắm Cầu cho em được người chồng như tôi đã yêu em Mối tình thứ hai là với một cô nhà ở làng hoa Nhật Tân, có cái tính cách mạnh mẽ đặc thù của dân ngoại đê. Mến thầy, bằng cái giọng vừa năn nỉ, vừa nũng nịu, cô nằng nặc xin được đến nhà thầy học phù đạo vào buổi tối. Cứ sau mỗi buổi học (thường kết thúc vào gần mười giờ đêm), cô lại chơm chớp mắt thỏ thẻ nhờ thầy đưa về. Tuy lúc đầu hơi ngại, nhưng nghĩ thân gái hơ hớ như thế đi đêm trên đê một mình nói phải tội chứ ngộ nhỡ có thằng nào nó liều thì phí một đời hoa, mà mang tiếng cho mình, thầy cũng tặc lưỡi gật bừa. Những cuộc đi dạo dọc con đê của hai con người “già nhân ngãi non thầy trò” này đã không may bị gián đoạn vô thời hạn do một sự cố bất ngờ. Đó là vào một đêm tháng Củ Mật, trời không giăng không sao. Sau khi đưa cô học trò yêu về nhà, đang túc tắc vừa đạp xe vừa chóp chép cái dư vị ngọt như mật hoa, hít hít cái dư hương thơm như hương như hoa của nụ hôn chia tay (thời đó nụ hôn không bị pha trộn vị gây gây của thịt chó và mùi găn gắt của mắm tôm như bây giờ - chú thích của tác giả), thầy bỗng cảm thấy có một vật gì cứng đập đánh bốp một cái vào trán. Một giải sao băng bỗng phụt loé lên trước mắt thầy trước khi đưa thầy vào cõi vô thức. Khi tỉnh dậy, quờ quạng khắp nơi thì thấy đầu, cổ, chân tay vẫn còn đủ cả. Chí có cái xe “Sputnik”, chiếc đồng hồ “Raketa”, chiếc áo bay và đôi giày cô-xư-ghin, gia tài dành dụm suột một năm đi Nga của thầy, đã theo giải sao băng bay vào vũ trụ bao la. May mà chiếc quần xibata sờn do đã bị tích kê hai miếng ở mông là còn sót lại. “Thôi của đi thay người” - thầy tự an ủi. Thế rồi bước thấp bước cao, co ro cúm rúm, thầy quá bộ về nhà, vừa đi vừa hát, hát cho đỡ lạnh, hát cho đỡ sợ, Đêm đông, ta lê bước chân không giầy trên đê Có ai thấu tình cô lữ đêm đông lưng trần Thầy phải nghỉ mất hai tuần để đi bệnh viện thẩm mỹ lại cái trán, nhưng dấu tích của chấn thương xương sọ thì vẫn còn lại đến tận bây giờ: phần tóc phải cạo khi giải phẫu đã không thể nào mọc lại được nữa. Mối tình thứ ba là với cô gái thuộc một gia đình Hà Nội cổ, nền nếp, gia giáo. Sau hơn nửa năm quen nhau, cô mới nhận lời đi chơi công viên Thủ Lệ với thầy, và dứt khoát đòi được ngồi ở chiếc ghế đá đặt dưới cột đèn cao áp. Trong lúc thầy đang say sưa thổ lộ tình cảm, cô học trò cứ cúi gầm mặt xuống đất. Thầy hỏi gì cô cũng cứ im lặng, dứt khoát không ngẩng đầu lên thầy lấy làm lạ, bèn ngó thử xuống xem dưới chân có cái gì thu hút mạnh hơn cả giọng nói, nét mặt và cả đôi tay đang miệt mài bộc lộ tình cảm của mình. Thầy chợt choáng váng khi nhận ra rằng, trong khi vội vã đến điểm hẹn của tình yêu, thầy đã mang nhầm đôi bít tất rách, thò cả hai ngón chân cái ra ngoài. Vừa xấu hổ, vừa tự ái, thầy đứng bật dậy, phăm phăm ra lấy xe về một mình. Khi một người bạn đã nhiều lần trải qua những ca hiểu lầm kiểu này chân tình khuyên nhủ chàng thì chàng quát lên: - Với tư cách cá nhân tôi có thể tha thứ được sự thiếu nghiêm túc đó, nhưng với tư cách một người thầy thì không đời nào. Không thể nào chấp nhận được cái thái độ thiếu tôn trọng đối với một nghề nghiệp cao quý như nghề của chúng ta. Đây thuộc về phạm trù quan điểm. Đấy rồi ông xem, còn tôi, còn ông, cô này mà trở thành một cô giáo tử tế thì tôi sẵn sàng nuốt chửng đôi bít tất hôm nọ. - Ông dốt bỏ mẹ, chẳng hiểu tâm lý phụ nữ gì cả, anh bạn phá lên cười, thế mà cũng mang tiếng là kỹ sư tâm hồn. Người ta đường đường là con gái nhà lành, mới đi chơi lần đầu tiên mà ông tỏ tình bằng một dose mạnh như thế, bé sợ, không dám ngẩng lên nhìn cái mặt ông là phải. Tôi nói cho ông biết nhớ, không hạ đường huyết rồi ngất xỉu ngay tại chỗ là phúc tổ mấy đời nhà ông rồi đấy. Cô bạn của bé vừa mới mách nhỏ cho tôi là bé rất thích ông. Mà con gái là thích thì áo rách, quần rách họ cũng chấp nhận được chứ đừng kể đến bít tất rách như ông. Thôi đừng sĩ diện hão nữa, ông giáo Thứ, đến làm lành với bé đi. Nếu chưa mua bít tất, lấy bít tất mới của tôi mà xỏ. Hàng ngoại nhé Made in China hẳn hoi. Nhưng không không là không, đấng quân tử nhất ngôn nay vẫn kiên quyết bảo lưu ý kiến của mình. B - Nàng Nàng, từng là một cô giáo nuôi dạy hổ, do chán chinh phục cái thế giới đầy những tiếng quậy khóc, la hét đơn ngữ, sặc cái mùi tanh đặc trưng của mồ hôi trẻ con pha lẫn mùi toa lét, đã tìm đến một nơi huyền ảo hơn với những tiếng ồn đa ngữ và mùi thơm của khói thuốc lá, cùng với một thách thức mới là chinh phục thế giới người nhớn. Cho đến thời điểm chàng xuất hiện, nàng cũng kịp nhét vội vào trong cái rương đựng của hồi môn mang về nhà chồng của mình vài ba cái bọc tương tư. Anh chàng thứ nhất làm phù rể cho một đám cưới mà tình cờ nàng được mời làm phù dâu. Trong khi chú rể trao hoa, trao nhẫn và trao nụ hôn cho cô dâu, chàng phù rể cũng kịp trao cho nàng phù dâu mươi cái nhìn tình tứ, một tá nụ cười đầy ẩn ý, và thậm chí còn kịp dẫm vào chân nàng một cái. Họ cũng có dịp đi chơi với nhau dăm bảy lần trước khi chàng phải đi Sài Gòn công tác khoảng nửa năm. Thấy nàng chạy chiếc xe 81 đời đầu đã lên tới cốt 3, lại còn bị lệch càng (do đâm vào vỉa hè khi nhận được lời tỏ tình một gã lái xe lam), anh chàng có nhã ý muốn cho nàng mượn chiếc xe Astrea chưa hết thời hạn rốt đa. Nàng từ chối, nhưng anh chàng cứ để xe lại ở cơ quan nàng, và gửi chìa khoá lại chỗ thường trực nhờ chuyển hộ. Lòng tự trọng của một người con gái không cho phép nàng dùng chiếc xe của một người con trai mà nàng chưa nhận lời chính thức, tuy trong lòng đã cảm thấy xốn xang. Chiếc xe có lẽ cứ đành phải nắm sưu tầm bụi giết thời gian ở nhà để xe cho tới khi anh chàng từ Sài Gòn ra, nếu như ba tháng sau ông thường trực không chìa ra cho nàng tờ invoice báo tiền gửi xe quý. Tính ra mỗi tháng nàng phải trả hơn 300 ngàn đồng (ở đây người ta tính tiền trông xe là 1 Mỹ một ngày đêm). Làm cho người nước ngoài cũng có cái khổ thế đấy! (Chứ không phải như ai vẫn tưởng bở?!) Phải công nhận cái nhà anh Xuân Diệu là hơi bị giỏi khi thốt lên: Yêu là mất ở trong mình một tí Vì mỗi khi yêu thì ví lại rơi... Của đau con xót, xót cho cả mình, xót cho cả anh bạn ngày nào cũng tốn tiền điện thoại liên tỉnh gọi ra thúc giục, van nài dùng xe, nàng nhấc ngay phone gọi đến cơ quan anh chàng hỏi thăm địa chỉ nhà riêng, và thuê hẳn một chuyến taxi tải Thành Hưng chở chiếc kỷ vật của tình yêu mang trả. Kết cục câu chuyện tình theo cách đó làm cả hai sau này đều thấy hụt hẫng. Chỉ có cha mẹ chàng trai là mừng, mừng như bắt được của! Chả là khi con đi Sài Gòn, không thấy để xe ở nhà, gọi điện hỏi thì cu cậu cứ ấm a ấm ớ, hai cụ nghi ngay. Cụ bà tru tréo lên với cụ ông: - Tôi biết ngay mà, cái thằng gà gô nhà mình lại phải lòng con phải gió nào rồi, hồn vía để trên mây, quên khoá xe để trộm nó lấy mất. Thảo nào, suốt một tuần thấy con về muộn, tôi hỏi thì nó cứ nhe nhởn ra cười. Hôm trước khi nó ra tầu, tôi cứ hỏi một đằng nó trả lời một nẻo, tôi đã thấy ngờ ngợ. Thật khổ cái thân già này, có mấy mẫu đất hương hoả ở quê bán tất cho con mua xe. Chúng con ăn ở xưa nay có đều tiếng gì đâu mà giời lại hại chúng con thế này, hở giời? Cái thằng ôn vật kia, mày mà vác cái mặt thớt của mày về thì mày biết tay bà! Bỗng dưng hôm đó, có một cô mặt mũi nghiêm trang như chụp ảnh chứng minh thư đến hỏi đúng tên tuổi, địa chỉ con mình, lại đề nghị được xem hộ khẩu, và trước khi giao xe còn bảo làm giấy biên nhận ghi rõ các bộ phận dễ tháo như cốp, xi nhan, gương, mặt nạ, đồng hồ, hay ổ khoá điện vẫn đầy đủ, hai cụ đoán ngay ra nàng là cảnh sát hình sự ăn mặc cải trang. Có mấy cân khoai sọ và một hũ tương ở quê mang ra biếu, cụ bà cho hết vào cái bị cói, và dúi vào tay nàng bắt nhận cho bằng được. Cụ bà còn xin địa chỉ “để khi nào em nó đi công tác về, vợ chồng chúng tôi sẽ bảo ngay nó đến cám ơn và hậu tạ chị”. Nàng chỉ lí nhí từ chối, và leo lên xe đi thẳng. - Các anh chị công an bây giờ tốt tốt là, thiên hạ họ nói thế nào ấy chứ, - hai cụ cứ tấm tắc khen mãi. Ngay hôm đó cụ ông đã viết lời cảm ơn gửi cho Đài THTW và Đài THHN, và tận cả mấy báo của ngành công an nữa. Anh chàng thứ hai là một thợ chuyên chữa máy photocopy. Khi lần đầu tiên đến chữa máy cho văn phòng nàng, uống có mỗi cốc sữa tươi do nàng pha mà anh chàng này đã như bị bỏ bùa mê, thuốc lú. Ai đời máy vừa chữa xong được ba ngày đã vội gọi điện hỏi xem đã hỏng lại chưa. Và từ đó cứ đều đặn mỗi tuần hai lần, vào thứ tư và thứ bảy, văn phòng đều nhận được lời hỏi thăm đầy tinh thần trách nhiệm về tình trạng sức khoẻ của chiếc máy photocopy. Vô phúc cho anh cu này là mấy lần sau gọi đến văn phòng đều gặp phải ông phân xã trưởng, một người đàn ông đầu tròn như quả bí ngô, tóc lơ thơ mấy sợi, mặt lúc nào cũng xị ra như bị, lại xa vợ đã lâu nên rất ghét nghe những chuyện trai gái tầm phào. Đến lần thứ ba trong vòng có mươi ngày mà phải trả lời cùng một câu hỏi, ông này đã gằn giọng xuống trong máy điện thoại: - Anh hãy nhớ kỹ điều này: máy Nhật là siêu bền, chỉ có sức chịu đựng của người Nhật là có hạn thôi. Nghe nói sau này mỗi khi máy có trục trặc cái nhà ông Nhật Sằng này lại đích thân vác máy đến cửa hàng để sửa. Anh chàng thứ ba là một văn sĩ khá nổi tiếng, học cao biết rộng, viết lắm in nhiều, chỉ có mỗi cái tật nhỏ là không biết đi xe máy. Cứ mỗi lần đi chơi là nàng phải đèo, còn anh chàng ngồi sau ôm chặt lấy nàng chắc vì sợ ngã. Lúc đầu nàng cũng thấy chướng vì bị mọi người trêu chọc, nhưng anh chàng rất khéo vỗ về, nên nàng cũng đánh chữ “kệ” cho xong. Duy có một lần vào mùa mưa ở Hà Nội, xe bị ngập hết bánh, chết máy, nàng phải xuống đẩy bộ. Anh chàng văn sĩ đã không nhảy xuống đẩy giúp nàng thì thôi lại còn co chân lên ngồi xổm trên yên sau (chắc là sợ nước làm bung đế đôi giầy nàng vừa mua tặng). Sau khi đã an toạ ở vị thế mới, cảm hứng nghệ sĩ nổi lên, anh chàng vừa rung đầu gối đánh nhịp, vừa cất tiếng hát não nùng, xót xa cho những vất vả, gian truân mà nàng đang trải qua: Hà Nội mùa này lắm những cơn mưa Váy ngắn, giầy cao, chân em dầm trong nước lạnh Mưa vẫn rơi rơi, ta bên nhau một chiều lướt thướt Thật khổ em tôi, lặn lội cái thân cò... Dân tình đi đường trông thấy nghịch cảnh đấy đã không nhịn được cười, lại nghe anh chàng ngẫu hứng hát thì đồng loạt vỗ tay, hò reo “bis, bis...”, ầm cả hai bên đường. Nàng chẳng nói chẳng rằng đẩy nghiêng xe một cái làm chàng văn sĩ ngã tùm xuống nước. Chàng ta phải hụp lặn ở cái bể bơi lưu động đó mất hơn nửa tiếng mới tìm thấy cái kính cận đã bị vỡ mất một mắt, và đến gần nửa đêm cũng lần mò về được tới nhà. Nghe bảo anh chàng ngã bệnh, nằm liệt giường mất gần một tháng, trong cơn mê sảng cứ hát đi hát lại điệp khúc về mưa. Con người cao thượng này chẳng những không giận gì nàng mà trái lại còn yêu tha thiết hơn, tuy nhiên từ đây chỉ là tình yêu đơn phương, vì chẳng bao giờ nàng còn đến đón chàng đi chơi nữa. Ngày nàng lên xe hoa, tuy không được mời nhưng dò biết được qua bạn bè nàng, bất chấp cái cảm giác nhức nhối của vết thương lòng đang ngày một há to miệng, chàng văn sĩ thuê hẳn một chuyến xe ôm khứ hồi, hiệu Angel đời chót, đến dự đám cưới. Sau khi cơm rượu no say, văn sĩ lừ lừ khiêng bộ mặt đưa đám tới gần bàn cô dâu chú rể chúc mừng hạnh phúc, và tất nhiên là không quên dúi vào tay nàng một chiếc phong bì. Sau tuần trăng mật, khi kiểm kê chiến lợi phẩm, nàng phát hiện ra trong chiếc phong bì đó thay vì tiền mừng là một mảnh giấy được cắt tỉa theo hình một trái tim đã te tua, trên đó ghi đôi dòng thơ: Sông đã ra biển rồi, sao dòng vần thao thiết chảy Em đã có chồng, sao tôi vẫn tương tư Những mối tình như vậy đi qua đời nàng để lại một chút xao xuyến, bâng khuâng cộng với một tí ti hụt hẫng, nhưng không hề khiến nàng thất vọng, hay tìm đến làm bạn với seduxen. Thử một tí chơi cho biết, chứ nàng không thể quên được cái mục tiêu đã được khối óc, con tim và cái bản năng đàn bà của nàng thông qua với 66% phiếu thuận là tìm một tấm chồng cho ra tấm chồng, “bõ công trang điểm má hồng, môi son”! Câu hát ru của bà ngoại khi nàng còn bé vẫn còn như văng vẳng bên tai: Tình như bát bún riêu cua Trông qua đầy hụ, ba lùa hết ngay! Ai đã từng ăn bún riêu cua hẳn không thể quên được cái bát có hình dáng đặc biệt dành riêng cho loại đặc sản vỉa hè truyền thống này, được gọi bằng một cái tên rất “mơi” là bát yêu! Đó là một cái bát có miệng loe to tướng, lòng hóp lại đột ngột. Trên cái miệng loe đó, người ta nhìn thấy đủ cả bảy sắc cầu vồng: sắc tím của tía tô, sắc xám của mắm tôm, sắc xanh của hành lá, sắc nâu của thịt cua, sắc đỏ của cà chua, sắc da cam của gạch cua và sắc vàng của váng mỡ, tất cả nỏi bật trên cái phông trắng mịn của sợi bún. Người chưa từng ăn bún riêu cứ ngỡ sẽ thoả mãn được cái dạ dày háu đói của mình khi nhìn thấy một bát bún riêu đầy đặn như vậy. Nhưng, chẳng phải nói ngoa, đúng ba lần dùng đũa lùa bún vào mồm là sạch sành sanh bát. Nàng đã ăn đến bát thứ ba mà vẫn chưa thấy bõ bèn gì. Đúng là các cụ nói phải, chẳng gì bằng cơm, phải có tí bụng mới khỏi sôi. Sau này chán cơm ăn bún thì lại đi một nhẽ! Hà nội đêm trở gió Chàng gặp nàng ở phòng thường trực một khu building cho các văn phòng nước ngoài thuê, khi ra đó lấy báo. Ngay từ cái nhìn đầu tiên, linh tính đã mách bảo với chàng rằng Con Tàu Mùa Xuân của chàng sẽ đỗ hẳn ở cái ga thứ 13 này. Chàng là người có đạo nên không bao giờ dám cưỡng lại số mệnh. Vả lại, đã thấy mệt mỏi nên chàng không muốn kéo dài thời gian trên đường làm gì nữa. Chàng mua ngay hai vé nghe nhạc giao hưởng thính phòng, cho vào hai chiếc phong bì, rồi cộp hai cái dấu “Kính Biếu” lên đó. Nhét một chiếc vào ngăn báo của mình, một chiếc bỏ vào ngăn báo của nàng, chàng chờ nàng xuống lấy báo, rồi làm như tình cờ, bước vào mở ngăn báo mình ra. Chàng reo lên khi mở phong bì: - Ồ, tuyệt vời quá! Gửi mua mãi không được vé, hết hy vọng rồi lại nhận được vé mời. Chương trình này cực kỳ, toàn những bản nhạc nổi tiếng thế giới, - chàng giải thích cho ông thường trực lúc đó đang ngủ gà ngủ gật vì người thay ca đã quá ba tiếng rồi vẫn chưa chịu đến. Nàng biết tỏng cái vở bắt quen của anh chàng, nhưng vẫn thấy hơi hiếu kỳ. Lần đầu tiên, nàng gặp một người chưa già lắm mà lại thích nhạc giao hưởng. - Ừ, cứ để yên xem sao, - nàng mỉm cười. Chiều thứ bảy đó, sau khi đá bóng xong, chàng từ chối đi uống bia với anh em đội bóng, phóng ngay về nhà tắm gội sạch sẽ. Chỉnh trang quần áo xong, xịt tí gôm lên đầu, xức tí nước hoa vào người, chàng đến Nhà Hát Lớn đợi từ sáu rưỡi, tuy buổi hoà nhạc bắt đầu từ 8 giờ. Chàng mua một bịch hạt bí, chọn một chỗ khuất đứng đợi. Vừa chờ đợi, chàng vừa lo nàng không đến, bởi nếu thế không tiến hành test được. Yêu đương gió thoảng thì thôi, chứ một khi đã quyết định xe duyên vợ chồng, ăn đời ở kiếp với nhau thì phải “tét tiếc” cho nó đàng hoàng. Ai đã từng một lần đi nghe giao hưởng đều có thể rút ra một nhận xét này: trong cái tĩnh lặng rất có ý thức của phòng hoà nhạc, và trên cái nền rất du dương của những giai điệu cổ điển, người ta rất dễ buồn ngủ nếu không cảm thụ được loại hình âm nhạc bác học này. Theo ba rem mới của chàng, sau nhiều lần sửa đổi và bổ sung, nếu nàng có ngủ, vẫn có thể châm chước được. Đã từng là một người thầy, chàng đã quá hiểu sự què quặt của nền giáo dục nước nhà. Nhưng điều quan trọng là khi ngủ nàng không được ngáy; chàng là người rất thính tai, một tiếng hắt xì hơi của con thạch sùng cũng có thể làm chàng tỉnh giấc. Tám giờ kém năm phút, nàng lững thững bước lên bậc cổng nhà hát. Thế là yên tâm, cái test có thể thực hiện được rồi. Hai tiếng đồng hồ đã trôi qua, chắc độc giả cũng hồi hộp chẳng kém gì người viết, bởi vì nếu nàng không qua được cái test này thì chắc người viết phải vĩnh biệt độc giả ở đây. Rất may là mọi thứ đã trôi qua suôn sẻ, thậm chí nàng còn đạt điểm xuất sắc đến mức one-man jury, sau khi tranh luận một cách căng thẳng nhưng vẫn công tâm, đã đi đến thống nhất là nàng được miễn examination. Hôm đó, lần đầu tiên trong đời, nàng có người mời đi dạo dưới ánh trăng thơ mộng xứ Bavaria, xuôi thuyền theo dòng Đa nuýp, cưỡi lạc đà đi shopping ở Phiên chợ Ba tư..., và phóng xe đi ăn cháo cả quả ở Mai Hắc Đế!!! Tuy chỉ đi nghe nhạc vào thứ bảy, nhưng thực ra tối nào họ cũng có thời gian ở bên nhau, vì bốn buổi một tuần, chàng luôn đến đón nàng lúc tan học ngoại ngữ, sau khi đi chơi tennis về. Hai tối còn lại chàng đến nhà nàng. Cách đây một năm, nàng đã ghi danh theo học chương trình “Spoken English for tonight” (Tiếng Anh Nói Đêm Nay). Đây là chương trình tiếng Anh vào loại nổi tiếng nhất thế giới dưới góc độ tiện dụng. Nó tạo cho người học một tâm lý cực kỳ thoải mái và chủ động, tự mình cảm thấy khi nào đã đạt đủ trình độ thì xin thi lấy bằng. Chả thế mà có những người mới học có một nửa, thậm chí 1/3 khoá đã được cấp bằng loại ưu. Lại cũng có những người khác, số này ít hơn, học đi học lại tới bốn, năm khoá mà vẫn chưa được cấp bằng. Người ta cứ gọi tắt đó là chứng chỉ “Ai si em?” (ICM), chứ tên đầy đủ của nó là “The International Certificate of Multimedia”, dịch ra tiếng Việt nghĩa là “Chứng chỉ Quốc Tế về Truyền Thông Đa Phương Tiện”. Tệ cái thiên hạ cũng có lắm kẻ rỗi hơi cứ nghĩ xiên nghĩ xẹo, rồi đọc chệch ra thành “The Informal Certificate of Marriage”, tức là Giấy Đăng Ký Kết Hôn Không Chính Thức. Thành thử, đôi khi cũng có những ông bố, bà mẹ nhẹ dạ cả tin, nghe theo luận điệu tuyên truyền của những phần tử xấu, cấm con cái theo học những khoá này. Họ, vô hình trung, đã làm cản trở quá trình hội nhập của lớp trẻ ở Việt Nam. Nhưng mà thôi, ta hãy quên họ đi, hãy để cho lịch sử phán xét họ. Đến nhà nàng chơi, chàng cảm thấy rất ngại hai ông bà già, người mà chàng đã thầm nhắm làm bố mẹ vợ, nên chẳng dám nói năng gì cả, ngoài hai câu chào lúc đến và lúc về. Ngồi không cũng vô duyên, chàng đành dán mắt vào chiếc TV 14 inches nội địa, màu chập chờn lúc có lúc không. Lâu lâu rồi cũng thành quen, chàng chăm chú theo dõi TV một cách thực sự. Đôi khi gặp những vấn đề hay hay, chàng còn lấy bút chì ra ghi chép để ngày hôm sau có tin cho sếp. Sau hơn nửa năm, mẹ nàng gọi nàng vào bếp: - Trong đám bạn bè con tới đây chơi, mẹ trông thấy có mỗi cái nhà bác này là ưng mắt mẹ. Trông đàng hoàng, tử tế lắm. Phải mỗi cái tội nghèo. - Mẹ biết gì mà bảo người ta nghèo? - nàng hỏi lại. - Thì mẹ thấy đến đây cứ chúi mũi vào cái vô tuyến, chẳng nói, chẳng rằng gì cả, mẹ biết ngay, - bà mẹ phân bua. - Thỉnh thoảng lại còn ghi ghi, chép chép nữa, con ạ. Đàn ông chịu khó học hành, phấn đấu như vậy là có phúc đấy, con ạ. - Nhưng mà con với anh ấy đã có gì đâu mà mẹ cứ cuống lên, - nàng giẫy nẩy lên, mặt đỏ ửng. - Cha bố nhà chị, tôi ngần này tuổi đầu, đã ba lần gả chồng cho các chị của chị, hai lần cưới vợ cho các anh của chị, tôi mà lại không đi guốc trong bụng chị à? Cứ nhìn cái vẻ mừng rỡ của chị khi anh ấy đến, rồi ánh mắt nuối tiếc của chị khi anh ấy về là tôi đoán được hết. Chả phải đợi chị thưa với tôi, - bà vừa nói vừa nheo nheo mắt nhìn cô con gái út. - Mẹ này, - nàng nũng nịu gục đầu vào vai mẹ. - Anh ấy đã nói gì với con đâu. - Thôi chả phải nói. Đàn ông nói in ít thôi. Bố chị ngày xưa cũng thế, - bà trầm ngâm nhớ lại, - Hồi đó, chúng tôi đâu có nhiều thời gian tìm hiểu như anh chị bây giờ. Người ta dẫn ông ấy đến nhà ông bà ngoại chị chơi để làm mối cho tôi. Ông ấy ngồi yên một lúc mà chẳng biết nói câu gì, hay tay cứ hết vặn vào rồi lại vặn ra. Bỗng nhiên, thấy cái điếu cày của ông ngoại chị để gần đó, ông ấy vồ lấy, vê thuốc, châm lửa rồi rít lên sòng sọc. Thấy vẫn chưa biết nói gì, ông ấy làm tiếp hai vê nữa, khói phả vả vào mắt tôi cay cay là. Xong vê thứ ba thì hình như ông ấy hơi say, lại đâm ra dạn. Ông ấy mồi tiếp một vê nữa, châm đóm rồi đưa điếu cho tôi: “Em thử đi, cái tăng điếu này hút đượm lắm!”. Tôi lúc đó chẳng nhịn được cười, ông ấy cũng cười. Rồi phải lòng nhau từ đấy. Chị xem, sống với nhau đã năm mươi năm rồi, có với nhau sáu mặt con, mà đã lần nào to tiếng với nhau đâu. Bà ngừng một tí để nhấp ngụm nước rồi nói thêm: - Chị với anh ấy bàn bạc với nhau liệu lúc nào tổ chức thì tuỳ, nhưng tôi nói trước là sang năm chị Kim Lâu không cưới được đâu nhá. Biết anh ấy nghèo, tôi cũng chẳng thách gì cho nó to tát cả, chỉ lo giúp tôi ít trầu cau, với cân chè Thái để chia cho hàng xóm, họ mạc là được. Cưới xong, nếu bên ấy chật, anh chị dọn về luôn đây mà ở cho vui, còn có cái vô tuyến cho anh ấy nghiên cứu tình hình. Nàng vừa buồn cười vì mẹ “bé cái nhầm”, vừa vui vì thế là mẹ đồng ý. Nhưng mà tại sao chàng chẳng chịu nói gì cả? Hay là... Chẳng có “hay là” gì cả, chàng cũng muốn nói lắm, nhưng chẳng biết nói thế nào. Những lời tỏ tình trước kia chàng đều cảm thấy không thể diễn tả được cảm xúc của chàng lúc này, cảm xúc của một người rất muốn lấy vợ. Chàng cứ băn khoăn suy nghĩ mãi, mà ngày Nhà Giáo Việt Nam, thời điểm chàng thấy thích hợp nhất để tỏ tình (vì chàng và nàng đều xuất thân từ nghề giáo), đang đến gần. Sáng 20/11, chàng dậy từ 5 giờ sáng, ngồi vào bàn. Viết rồi lại vò đi, vứt sọt rác. Trong gần ba tiếng đồng hồ chàng đã làm hỏng tới 99 cái bưu thiếp. Còn chiếc cuối cùng, chàng đành viết bừa tâm trạng của mình lúc đó: Mỗi thu đi đời anh lại băm thêm một nhát Bởi băm nhiều nên nhát lắm em ơi (Năm nay chàng đã nhận nhát băm thứ bảy - Chú thích của tác giả) Rồi quên cả rửa mặt, chàng phóng vội đến chỗ làm để kịp nhét chiếc phong bì vào ngăn thư báo trước khi nàng đến. Sáng hôm đó, chàng bị sếp phê bình vì điểm nhầm báo ngày hôm trước. Trước khi ra về, chàng nhận được một bức FAX được gửi đi từ Bưu Điện Bờ Hồ, trên đó ghi vẻn vẹn có một câu: “Mẹ em bảo sang năm em Kim Lâu đấy!”. Đám cưới của họ có rất nhiều người tham dự, ai cũng vui mừng trước hạnh phúc của họ, chỉ trừ có anh chàng văn sĩ mà ta đã có dịp đề cập ở phần trên. Hạnh phúc đến quá nhanh làm cả hai đều thấy ngỡ ngàng, không biết là mơ hay thật. Ngay sau đêm tân hôn, chàng phải ra hiệu đặt in tấm ảnh cưới theo cỡ người thật, thuê đóng khung, và treo lên tường, ngay bên trên giường cưới. Kiểm kê xong tiền mừng, sau khi trừ đi các khoản đầu tư và trả nợ, chàng mua tặng bố mẹ vợ một chiếc Panasonic 21 inches, loại stereo đời mới nhất. Hà Nội ơi, sông sênh mùa cưới đợi chờ, Vẫn con đường Khâm Thiên ngày đó Có đôi uyên ương đi dạo trời đêm. Hồng hà ơi, ngực ai khe khẽ phập phồng, Chàng trai ngượng ngùng dụi đầu vào thiếu nữ, Tiếng yêu ngân vang trong trái tim nàng Mộng mơ nay hẹn ước cùng mùa xuân. lon to THẾ GIỚI SEX

Bốn Mắt

lon to Bốn Mắt Tác giả: Khù Khờ Ngồi ở phòng giám học nẩy giờ, tôi ra dấu nhiều, mệt lắm. Bà giáo già không tin tôi hiểu những gì bà đã nói, dù đầu tôi luôn gật và miệng thường nói “yes”. Ngồi một lát, chắc để cho tôi thở, bà nhấc máy nói. Tiếng bà oang oang, vọng lại từ cuối hành lang lớp học. Được một chốc một cô gái Á đông bước vào văn phòng. Có lẽ là người Việt. Bà giáo nói với cô ấy đôi câu rồi bỏ đi. Trơ trọi quá tôi xoa tay cười cầu tài. Cô gái chẳng nhìn tôi, dù bằng nửa con mắt. Khẽ hất mái tóc dài ra sau, cô hỏi một tràng tiếng Mỹ. Chẳng cho tôi một vài giây, để nhớ những câu hỏi đó. Lạ thật. Cũng tiếng Mỹ sao cô này nói tôi hiểu hết trơn. Tôi liền trả lời sơ qua về sức học của mình. Dĩ nhiên bằng tiếng Việt. Cô ta cứ lắc đầu nguầy nguậy. Thỉnh thoảng lại bậm môi, chăm mắt có chiều tức giận. Hai đôi mắt tròn đen sau cặp kính đen tròn lớn giống như cái đèn pha soi mói tôi. Tôi có nói gì đâu. Tôi chỉ bảo là ở Việt Nam tôi đã học xong đạo hàm và tích phân. Tôi thích môn hình học và vẽ qũy tích tương đối khá. Nói chung là những câu nói để tăng cái giá trị cuả mình một tí. Cực chẳng đã, cô ta trả lời lại bằng tiếng Việt lơ lớ “Mi đâu có hỏi là người đạo gì mà phải phân tích. Mà tại sao lại nói Mi là qủy.” Trời ơi! Thiệt là ách Thị Kính. Tôi vờ đánh trống lãng “ Cái gì Mi? Trà Mi hay Thảo Mi?” Cô ta chỉ vào người trả lời “Me là đây.” Bây giờ tôi mới thấy quê về cái tài nghe cuả mình. Tôi cười trừ “Cho tớ xin lỗi. Tớ mới qua đây chưa được một tuần.” Tôi biết đến một nhân vật mới - Bốn Mắt. Vài tuần trôi qua. Những ngày đầu mới vào học, tôi khổ sở với cái trường quá rộng lớn. Số học sinh chỉ vỏn vẹn trên dưới một ngàn. Hàng ngày tôi lầm lũi giữa đám học trò lớn trước tuổi. Ngày mới vào lớp, tôi đến trình diện cô giáo tiết đầu. Cô ta nhìn tấm cạc tôi trình một lúc, rồi gọi vài người nữa, có lẽ là học sinh. Cả bọn phá ra cười. Ít phút sau cô giáo thật mới bước vào. Tôi chưng hửng. Học trò ở đây sao dám ngồi bàn thầy cô. Mặt mũi lại tô son đánh phấn trông chẳng khác người lớn. Có hôm tôi thấy cô giáo văn lù lù sắp bước đến cưả. Tôi khẽ vỗ vào vai tên bạn kế bàn đang say sưa uống môi hồng cô bạn. Hai đứa cứ tự nhiên cho đến khi cô giáo giảng bài. Thiệt là loạn. Thiệt hết phê! Bữa nọ loa trong trường loan báo gì đó. Đám thiếu sinh quân (ROTC) chạy tới chạy lui, kèn trống rền vang nơi sân cỏ xa đằng kia. Có lẽ họ đang chuẩn bị duyệt binh, hay sửa soạn đón chào ai đó. Nghe phong phanh lát nữa sẽ có ông tướng ghé trường. Rồi tiếng còi hụ inh ỏi. Lớp tôi bỏ màn cửa xuống. Tụi học trò cứ dáo mắt ngó ra qua mành cửa hé mở. Đám thiếu sinh quân chạy thục mạng ra phiá sau. Có lẽ ông tướng đã đổi hướng. Nao lòng quá tôi tung chạy ra khỏi lớp ra phiá sau trường, để xem. Tôi đang ngơ ngác đứng giữa khoảng sân trống, chẳng một ai. Đằng sau từ các lớp học là tiếng reo hò cuả bọn học sinh. Bốn Mắt từ đâu xông ra. Kéo tôi trở lại lớp. Ấn đầu tôi xuống dưới bàn, rồi phóng đến tôi một cái nhìn sắc bén. Được một lúc sau khi còi hụ đã dứt Bốn Mắt mới trách “Tại sao lúc nẫy Tớ chạy ra đó vậy. Gió xoáy (tornado) cuốn chết chứ chẳng chơi.” Tôi ngượng ngùng phân trần “Vậy mà Tớ cứ tưởng là ông tướng (commando) nào tới chứ. Chạy ra xem vậy mà.” Bốn Mắt lắc đầu trở lại lớp cuả mình. Khi đi, mặt thoáng dấu nụ cười. Mấy tuần nay tôi để ý thấy tụi học sinh bản xứ thích món dồi lắm. Muốn hỏi họ mà tôi cứ ngại. Thấy Bốn Mắt đang ra khỏi phòng ăn, tôi liền chạy đến hỏi “Đó là dồi gì vậy. Thấy họ ăn có vẻ ngon lắm.” Bốn Mắt tự nhiên trả lời “Hot dog đó. Tớ thử cho biết.” Tôi liền le lưỡi “Nhà tớ đạo Phật nên không đưọc ăn thịt chó. Thôi xin miễn.” Bốn Mắt ôm bụng cười nắc nẻ. Mấy cô bạn Mỹ đi cùng, chúi đầu hỏi, rồi cùng lên phá cười. Tôi ngơ ngác. Chẳng muốn bước vào cái nhà ăn này nữa. Tiếng còi lại ré vang. Thêm một tên bị kéo ra khỏi sân. Cuộc đá banh thiếu hào hứng đang diễn ra giữa lớp 11 và 12. Thời bấy gìờ môn bóng tròn chưa được thịnh hành ở Mỹ, ngay cả ở sân trường trung học. Cái sân cỏ xanh rờn, còn ngon hơn Thống Nhất ở SàiGòn, Trên sân có chục mạng, chỉ đủ để ráp đầy đội hình 11 người mỗi bên. Tên nào tướng tá cũng ngon, quần áo giầy vớ xịn, thể lực tốt, nhưng đá qúa tệ. Mấy tên này chỉ biết chạy thục mạng chứ chẳng biết chuyền banh gì cả. Lâu lâu có một tên đá banh thật cao lên. Đám nữ sing đứng ngoài lại rú lên, la hét ỏm tỏi lắm. Tôi đứng bên ngoài mà máu cứ chạy rần rần, chân tay không khỏi ngưá ngáy. Chịu không nổi nữa, tôi mới chạy đến năn nỉ với thầy huấn luận viên. Ông dạy tôi môn Vật Lý. Trong lớp, ông ta có vẻ khoái tôi, vì tôi làm bài không dùng máy tính (đâu có tiền mà mua), kể cả lấy căn số. Bài tôi nộp có chất lượng hơn, kèm theo một đống giấy nháp, chứ không phải chỉ là một tờ giấy khoanh tròn câu trả lời. Thỉnh thoảng ông hay nhìn về tôi trong giờ học. Tôi hay rút dây giầy làm ảo thuật cho mấy tên ngồi cuối lớp. Mr. Smith, ông thầy, nhìn tôi một lúc rồi khẽ gật đầu. Tôi vội vàng đá phăng đôi giầy, xắn quần jean lên, cởi áo rồi chạy vội vô sân sợ Mr. Smith đổi ý. Đồng đội tôi thì hơi ngơ ngác. Nhưng vẫn tiếp diễn cuộc đấu. Tôi chạy lên, chạy xuống cả chục bận mà không tên nào chuyền bóng về phiá tôi. Đang nản thì trái banh trong đám đông bật bung về phiá tôi. Tôi chạy thục mạng, chân bắt lấy banh, dễ dàng lừa qua cả vài tên đội bạn. Bên ngoài tiếng hò hét cuả bọn con gái vang ầm lên. Chẳng khác nào lửa được thêm dầu, tôi hăng say lừa banh trái, phải và quyết tâm phải làm bàn cho được. Khi tiếng reo hò im hẳn, tôi nghe rõ tiếng lách chách của cái quạt trần trên đầu. Lờ mờ tôi nhận thấy vẻ lo âu cuả … Bốn Mắt. Cô đang dùng khăn ướt để thấm ướt những giọt … có lẽ là mồ hôi, còn tuôn chảy bên mí mắt tôi. Tôi đang thênh thang trên đường thì nghe tiếng xe thắng rít. Nhìn lại thấy Bốn Mắt đưa tay ra khỏi xe vẫy “Uả, nhà cuả Tớ ở đây hả?” Thấy vẻ thân thiện cuả cô bạn Việt Nam duy nhất trong trường tôi cũng mừng. Có lẽ từ trận đá banh đến nay, cô ta có vẻ dễ chịu với tôi hơn trước. Tôi trả lời “Nhà cuả tớ cách đây chừng bốn năm con đường.” Bốn Mắt tiếp tục hỏi “Vậy Tớ cắt cỏ cho nhà này hả?” Vừa chợt hiểu, tôi đáp “Đâu có. Tớ đi ra hồ để bơi. Không có xe hơi, tớ tập lái xe cắt cỏ cho quen!” Do dự chưa đi Bốn Mắt ngập ngừng “Hồ đàng đó nổi tiếng về cá sấu nhất vùng này.” Tôi quay đầu xe (cắt cỏ) lại “Hèn gì chiều nào thấy tớ bơi, mấy người trên bờ cứ ngoắc tay kêu lên.” Mấy ngày hôm nay vào lớp mấy đứa bạn ngó tôi bằng cặp mắt lạ lắm. Cả cô thầy nữa. Chuyện trên sân banh xảy ra cả tháng rồi. Một hôm ông thầy toán đưa cho tôi một sấp giấy với những bài toán đủ hình, đủ dạng. Tương đối dễ hiểu vì câu hỏi rất ít Anh Văn. Tan trường tôi ngồi chờ Bốn Mắt để nói một chuyện. Mấy tuần rồi không gặp. Đang ngồi vẽ thì tôi bật giật mình vì cái vỗ bất ngờ trên vai. Bốn Mắt bắt chuyện “Uả, Tớ vẫn nhớ trận đá banh tháng trước sao mà ngồi đây vẽ lại vậy?” Tôi ngượng ngập đáp “Đâu có. Tớ nhớ đến mấy đứa bạn còn ở Việt Nam nên nghuệch ngoạc lại hình ảnh xưa.” Bốn Mắt chỉ vào góc trang giấy hỏi “Vậy ai đang đứng đây xem mấy người đá banh?” “Bốn Mắt chứ ai.” vừa nói tôi vừa khoanh tròn đôi mắt kính to tổ bố. “Tóc cuả Bốn Mắt đâu có ngắn chấm vai như vậy” cô bạn tôi phân bua. Hết biện chữa tôi nói nhỏ “Bốn Mắt để tóc ngắn đẹp hơn!” Bốn Mắt có vẽ hờn dỗi bỏ đi. Tôi chạy theo. “Ờ, tớ có chuyện muốn nói với Bốn Mắt.” Bốn Mắt đi chậm lại chờ đợi. Tôi đưa cuốn kỷ yếu “Tớ vừa viết vài dòng lưu niệm cho Bốn Mắt. Thấy lời lẽ cuả bạn bè trong đây, tớ hãnh diện về Bốn Mắt lắm. Tớ không viết được tiếng Anh nhiều nên viết bằng tiếng Việt. Chừng nào Bốn Mắt biết đọc tiếng Việt, hẳn sẽ hiểu. À, tớ thấy trong đây thiên hạ vẽ nhiều quả tim, nên tớ chỉ vẽ dấu hỏi.” Bốn Mắt nhìn tôi một hồi, rồi khẽ hỏi “Còn câu chuyện Tớ muốn nói?” Tôi gãi đầu, móc túi lấy ra một tờ giấy “Nói cho Bốn Mắt mừng, tớ đậu TOEFL rồi!” Nhìn vào tờ giấy, để tôi mở cờ trong bụng một hồi lâu, Bốn Mắt mới giải thích là điểm thi này chỉ dành cho học sinh “ngoại quốc” như tôi. Các đại học xét đơn dựa vào điểm thi SAT. Tôi mau mắn trả lời “Tớ cũng vừa có kết quả SAT tuần rồi. Anh văn được đến 210. Thiệt cái số cũng hên. Đánh lô tô đại mà cũng trúng 25%.” Bốn Mắt chầm chậm trả lời “Mình bỏ giấy trắng cũng được 200! Tớ phá kỷ lục ở trường này ở cả hai bộ môn trong một kỳ thi đó.” Rồi không đợi tôi hiểu Bốn Mắt nói tiếp “Mấy ngày nay thầy cô nói về Tớ không phải vì môn Anh Văn. Ai cũng dư biết khả năng đó cuả Tớ rồi... Một số thấy điểm cuả Tớ lệch lạc như vậy nên thử Tớ đó.” Đến gần bãi đậu xe, Bốn Mắt ngập ngừng đưa tôi ba tờ giấy “Đây là bài nói chuyện cho buổi lễ tốt nghiệp tối thứ Sáu. Đọc đi rồi cho Bốn Mắt ý kiến.” Lướt qua bài viết, tôi thật sự hãnh diện về cô bạn cuả mình. Hèn gì báo trường và báo địa phương không ngớt đề cập đến cô học sinh thật ưu tú này trong mấy tuần nay. Tôi đưa ngón cái lên “Số một! Bốn Mắt làm tớ hãnh diện muốn lên mây luôn.” Cô bạn nhẹ nhúng vai “Nhưng Bốn Mắt thấy thiếu cái gì đó trong bài nói chuyện này. Một cái hãnh diện về người Việt. Bốn Mắt viết mấy dòng này giống như cô Mỹ con. Chẳng có gì đặc biệt cả. Chẳng có cái gì để người khác nhớ về mình trong cái ngày đáng nhớ này. Tớ có làm cái gì để thấy hãnh diện không? Tớ có một ước ao nào muốn thực hiện?” Đứng một hồi lâu, tôi mới kể sơ qua mấy việc nhỏ, nhờ làm được, tôi có được niềm vui. Còn ước ao, tôi có nhiều lắm kể không hết trên vài trang giấy. Tôi ngồi xuống bệt xuống vệ cỏ, kể cho Bốn Mắt nghe chuyến đi không may mắn cuả tôi. Ngồi đó, tôi rấm rức lại những cái đau thương tôi đã chứng kiến trên biển cũng như nhìn thấy trên khuôn mặt từ những cái tàu, đến bến chỉ vỏn vẹn còn 5 hay 3 người. Thấy những người vừa vào bờ đã vội cạo đầu, ăn chay, đủ hiểu họ phải ăn gì trong những ngày đói khát trên biển hay trên một hoang đảo bị kéo đến. Trở lại là hình ảnh chúng tôi, hàng chục người, nhảy xuống biển giữa đêm khuya để bơi qua cái đảo nhỏ đối diện trại, không xa. Ở đó có tiếng gào thét cuả phụ nữ trẻ con. Đàng sau bên phía trại là những ngọn đuốc rực sáng, tiếng khua thùng để hỗ trợ sức mạnh cho đám thanh niên quyết tử. Thời gian lúc đó như dừng lại. Tôi đâu còn cái mắc cở, khóc như đưá con nít lên ba vì tủi hận. Khi chia tay với Bốn Mắt tôi cáo lỗi là sẽ không đến dự lễ ra trường cuả cô được. Mai tôi phải thu xếp để tiếp tục cuộc hành trình về phương tây. Bốn Mắt ngạc nhiên lắm “Sao Tớ mới tới lại đi?” Tôi chỉ vào chân cười “Chân tớ có cái mụn ruồi lớn lắm. Tớ không ở lâu một chỗ được. Bốn Mắt đi học xa, tớ đâu còn quen ai ở cái trường này. Có mấy người bên đảo rủ qua Cali. Nghe nói việc làm bên đó trả cao hơn tiền lượm cam bên này. Hy vọng tớ kiếm được đủ tiền để gởi về gia đình. Mấy đưá em sắp lớn. Tuy nhà nói không cần tiền, nhưng tớ thấy có bổn phận để lo cho mấy đứa em đi vượt biên. Học hành gác lại một năm cũng chả sao. Biết đâu năm sau, điểm Anh Văn cuả tớ khá hơn 210!” Sáng sớm, tuy sắp hè, nhưng trời vẫn còn mù sương. Cái xứ này vậy đó. Tôi ra xe đang bịn rịn chào bà bảo trợ. Bà ta cứ ôm riết lấy tôi, như người mẹ, không muốn cho con đi xa. Chuyện tôi đã quyết, đâu có ai ngăn được. Xe cuả Bốn Mắt trờ tới. Cô lấy ra cuốn kỷ yếu trao tôi “Thầy cô và bạn bè gởi tặng Tớ.” Rồi không nói gì, Bốn Mắt quay xe, lái đi. Tôi bỏ cuốn kỷ yếu vào thùng, vẫy tay chào bà bảo trợ đi trước khi nắng lên. Chạy ra xa lộ, hình như có xe Bốn Mắt theo tôi một đoạn. Có lẽ cô bạn sợ tôi chưa quen xe hơi từ xe cắt cỏ! Những năm 85 và 86, bọn trẻ chúng tôi luôn sôi sục về những tin gửi về từ các trại tỵ nạn tại Hồng Kông. Không khí lúc ấy cũng hừng hực như năm 78 lúc quân mọi rợ Pôn Pốt tràn qua mấy tỉnh ráp ranh mỗ bụng những người dân vô tội. Có khác chăng là những người mỗ bụng này tự hại lấy cơ thể họ để không bị cưỡng bức hồi hương. Cái quyết tâm mà những ai đã bỏ mình lênh đênh trên biển mới hiểu rõ được. Những chuyến đi (project Ngọc từ Berkeley) cuả những người trẻ vưà tốt nghiệp để phục vụ đồng bào tại các trại tỵ nạn được hầu hết mọi người ủng hộ. Hàng ngày trên Vietnet (lúc đó chưa có internet) giới thanh niên chuyền nhau những tin tức nóng bỏng nhất gởi về từ các trại tỵ nạn. Biết bao dòng cảm nghĩ nghe nhức nhối, những bài thơ, bài nhạc nghe vụng về mà hay. Trên diễn đàn là những cái tên quen thuộc Hiệu Ngôn, Tự Do, Bất Khuất, … Lâu lâu có vài bài phân tích thật xuất sắc và mới mẻ của Tha Hương, Bốn Mắt. Tôi thích cái suy nghĩ mở rộng của ông bạn bốn mắt từ Harvard. Dân nhà tông có khác. Sang năm 89, cuộc đấu tranh cuả tuổi trẻ hải ngoại chuyển hướng sang luật pháp. Trong một tờ fax Uỷ Ban Cứu Nguy Giúp Người Vượt Biển gởi, chúng tôi thấy rất hãnh diện về tập đoàn luật sư trẻ tham gia LAVAS để khởi tố chính quyền Hồng Kông vi phạm nhân quyền, đồng thời bênh vực cho dân tỵ nạn Việt Nam để được định cư ở quốc gia thứ ba. Trong những gương mặt cương quyết ấy, tôi thấy đôi mắt thật thân quen. Nhưng đôi mắt ấy không đóng khung sau đôi kính lớn. Và mái tóc … giờ chỉ chấm vai. Tôi không tin là như vậy… Vừa về nhà tôi chạy vội ra nhà xe. Một thùng sách cũ nằm trơ vơ trong góc. Nó theo tôi cả chục năm từ tây sang đông. Vất tung những cuốn sách nằm trên, tôi tìm thấy cuốn kỷ yếu, chưa hề mở. Tôi lật vội tìm người bạn cũ. Nơi đâu cũng thấy khuôn mặt kiều diễm và đôi mắt thật linh động. Ngoài những lời khích lệ cuả thầy cô cũng như những câu chúc tốt đẹp cuả bạn bè tôi chưa quen tên trong 4 tháng ngắn ngủi. Tôi tìm không thấy cái tôi muốn tìm... Một lời chia tay cuả cô bạn đã giúp đỡ tôi thật nhiều. Hơi thất vọng tôi đóng sách lại. Một tờ giấy kẹp ở trang đầu rơi ra. Vỏn vẹn chỉ nửa trang: “Xin cho con gởi lời cảm ơn đến ba mẹ đã hy sinh rất nhiều để con có ngày nay. Xin ghi ơn các thầy cô đã tận tụy dậy dỗ em suốt 4 năm trường để em đạt được thành quả hôm nay. Cám ơn các bạn với những kỷ niệm đẹp mà tôi sẽ ôm ấp suốt đời. Trong cuốn kỷ yếu có bạn đã viết cho tôi như vầy ‘American dream – Harvard, Beauty Queen, Most Popular!’. Thật ra đứng trước quý vị đây tôi thấy thật trống rỗng. Tôi chưa làm được gì ngoài cái tương lai có vẽ đầy hứa hẹn. Có thể là mảnh bằng thuốc từ Harvard như ba mẹ tôi mong đợi. Tôi không ngờ chỉ trong vài giờ đồng hồ mà tôi đã học được những cái mà tôi chưa được biết đến trong suốt mấy năm qua. Bạn có biết một đô la lẻ đủ để nuôi sống một gia đình một ngày, tại những nơi thiếu may mắn như quê hương tôi, Việt Nam. Các bạn có biết, chỉ vài đồng đô la, tuy không trợ giúp được ai lâu dài, có thể mở ra niềm hy vọng. Những người bạn ở quê hương tôi chỉ có một tương lai còn nhiều đen tối. Có ai trong chúng ta hiểu rõ hai chữ tự do, chúng ta lúc nào cũng có. Tôi may mắn học được cái giá trị cuả tự do qua những cái đánh đổi quá to lớn mà những người cùng quê hương tôi phải trả. Tôi có một ước mong! Tôi cố gắng sẽ làm những gì, nếu chưa đem lại hạnh phúc cho người khác, ít nhất sẽ xoa dịu được phần nào nỗi thương đau. Làm như vậy, tôi mong không phụ lòng trông mong cuả quý vị đã chịu khó ngồi đây nghe tôi hứa hẹn.” Không ngồi nghe cô bạn diễn thuyết tôi vẫn hình dung ra được những tràng vỗ tay không ngừng, những dòng lệ hạnh phúc. Cái đẹp cuả người bạn, theo từng hàng chữ … ngấm dần vào tim tôi. Thật là con người đẹp, thật đẹp, thật vẹn toàn như cái tên - Nguyễn Thị Từ Tâm. lon to THẾ GIỚI SEX

Bốn Mùa 1881

lon to Bốn Mùa 1881 Tác giả: Trần Thu Trang Đây có thể coi là lon to đầu tay tôi viết, theo lời khích lệ của một người bạn để dự thi trên một website về nước hoa. Kết thúc cuộc thi, tôi xếp hạng nhì. Chuyến bay bị hoãn vì sương mù, bên hàng không bố trí cho nàng về một khách sạn cách nhà anh chỉ hai dãy phố. Nhưng nàng không gọi cho anh, nàng sợ phải nhìn lại một lần nữa ánh mắt bình lặng không trách móc của anh. Nàng cũng không báo cho T. bên kia, chỉ mệt mỏi lên nhận phòng. Để nguyên bộ quần áo dày cộp chuẩn bị cho những đợt mưa tuyết xứ người, nàng ngả xuống giường, những hình ảnh vuông tròn lẫn lộn trượt trong đầu. Nằm trằn trọc mãi không thể ngủ nổi, nàng mở vali tìm vỉ thuốc, thời gian gần đây nàng tìm nó thường xuyên. Đập vào mắt nàng, phía trên đống tư trang đã xếp gọn gàng là một vật rất quen thuộc. Cái túi giấy màu trắng đục có hàng chữ mạ vàng. Đến bây giờ nàng cũng không nhớ đã tặng ông chủ nhà hàng món gì mà ông ta tặng lại nàng túi quà ngoại cỡ đó. Chỉ nhớ là cái túi quá đẹp và nàng đã bắt anh bỏ hết đống đồ trong ngăn kéo ra để lót nó xuống đáy cùng cho đỡ nhàu. Giờ nó không còn đẹp kỳ diệu như lúc ban đầu nàng mang về, nhưng cái màu trắng ngà của giấy và màu vàng nhũ của chiếc logo đó hợp với chiếc khăn len xanh sẫm thoảng mùi nước hoa của anh vô cùng. Không một bức thư. Không một mẩu giấy nhắn. Món quà chia tay trống trải nhưng vương vấn đến nao lòng… * Mùa thu năm ngoái, trời đầy gió và mặt đất đầy xác lá, nàng đang ngồi thu mình trong căn phòng nhỏ lắng nghe “nỗi im lặng phố khuya” như trong nhạc Phú Quang thì anh đến chìa ra hai tấm vé hoà nhạc. Trong tờ chương trình có ghi: Bản Bốn mùa - Concerto cho Violon của Vivaldi. - Sao anh biết em thích Vivaldi? - Anh không biết, bạn anh mới đưa vé chiều nay. - Bạn anh là ai? - Em không biết đâu. Nàng thôi không hỏi thêm, cũng không trang điểm thêm, chỉ khoác một chiếc khăn lụa màu nhạt qua vai rồi lặng lẽ đi theo anh. Nhà hát Lớn đầy những người nước ngoài cao lớn, thanh lịch và lạ lẫm. Anh cầm khuỷu tay nàng, miết nhẹ nhẹ như trấn an. Đã lâu rồi kể từ khi T. đi, nàng mới lại đến những nơi hào nhoáng thế này. Hai người ngồi trong một lô tầng hai, nơi nghe tốt nhất và xem rõ nhất. Vị nhạc trưởng người Pháp duyên dáng đưa tay mời vị thần âm nhạc từ đâu đó trên mái vòm đậu xuống cây đũa mảnh. Những nốt thăng nốt trầm lan toả. Nàng nghiêng đầu, khép mắt. Hương thơm của một loại nước hoa lẩn quất giữa hai chiếc ghế của nàng và anh. Nàng không còn lắng nghe nữa mà đang cảm nhận. Tiếng violon réo rắt và mùi man mát trầm lặng của nước hoa đưa nàng tới xứ Lombardi miền Bắc Ý, tới với những cánh đồng hoa oải hương tím ngan ngát trải dài tới chân trời, những vườn cam vườn chanh trĩu quả bên bờ Địa Trung Hải... Giờ nghỉ giải lao, anh ra ngoài rồi trở vào, hương thơm theo những dao động không khí vỗ vào tâm trí nàng như đợt sóng. - Anh dùng nước hoa? - Anh vẫn dùng, từ lâu rồi mà. - Vậy à? Em không biết. Anh im lặng vài giây rồi nói ra một cái tên, Cerruti 1881. Nàng gật đầu lơ đãng nghiêng mặt hướng về phía anh hơn một chút, không nhận ra rằng từ nay cái ám ảnh kết bằng khói thuốc lá của T. sẽ không còn theo mình thường xuyên nữa. * Mùa đông đến, nàng ghi tên học thêm một “cua” tiếng Ý ngoài giờ. Trường ở ngoại ô, trên một con đường mà ánh đèn lấp sau tán cây. Anh đến đón nàng, chạy xe song song trên quãng đường tối nhất, lắng nghe những câu chuyện không đầu không cuối hay những từ nàng mới học và mỉm cười. Thi thoảng anh kéo nàng đi ăn món Ý ở một nhà hàng quen, ông chủ người Parma hay quàng một chiếc khăn màu ô-liu, luôn nói “Ciao, bella” mỗi khi nàng bước vào. Một lần, bên chiếc bàn trải khăn ca-rô, trong khi chờ món Pizza với xúc xích Parma, nàng cười vô tư lự, thì thào với anh: - Nếu Nino vẫn quàng chiếc khăn kia và có thêm mùi Cerruti 1881, em sẽ yêu ngay. Anh không cười, chỉ nhìn sâu vào mắt nàng như tìm kiếm một ẩn ý nào đó. Mấy ngày sau, nàng thấy anh cũng có một chiếc khăn len màu ô-liu. * Mùa xuân tới, nàng dọn về căn gác đầy ánh sáng. Ở đó, chai nước hoa Cerruti 1881 pour homme trong hộp giấy màu xanh úa vẫn đứng cô đơn trên giá sách giờ có thêm bạn mới là đống libri e taccuini của nàng. * Cuối mùa hè, T. xuất hiện, không phải bằng xương bằng thịt mà chỉ bằng một lá thư sáu trang viết tay bay bướm gửi từ một nơi cách nàng nửa vòng trái đất, đúng lúc nàng và anh đang chờ mùa thu tới để kết thúc cuộc sống chung không danh phận và tiến tới một ràng buộc thiêng liêng hơn. Trong căn gác nóng hầm hập vì mất điện, nàng thắp nến đọc thư T., anh nhìn xoáy đôi mắt long lanh nước và lung linh ánh nến của nàng, rồi im lặng ra khỏi phòng. * Nàng nâng chiếc khăn lên, ấp vào cổ, cái nham nhám của những sợi len thô to cọ lên làn da và mùi hoắc hương lẫn hoa y-lang y-lang mang mã số 1881 thoảng rụt rè len vào tâm trí, cảm giác vẫn như mỗi khi anh đi đâu về để nguyên khăn mũ khẽ cụng đầu vào thái dương nàng. Đến bây giờ nàng mới nhận ra, với nàng, anh cũng giống như chiếc khăn len đan bằng sợi thô, ấm áp chở che nhưng chưa bao đủ dài rộng để quấn và giữ chặt lấy nàng. Anh chỉ biết đến bên kéo nàng ra khỏi nỗi cô đơn lạnh lẽo, làm trái tim nàng ấm lại bằng mọi cách có thể. Và khi T. trở lại, trái tim nàng không còn cô đơn, anh lặng lẽ quay đi. Ngay cả việc đưa chiếc khăn với bao nhiêu kỷ niệm cho nàng, anh cũng làm lặng lẽ, như nhất định phải vậy, như một cử chỉ chăm sóc kín đáo cuối cùng. Nàng ngồi thẳng lên hít một hơi dài như để trấn áp sự xao động. Một cái gì đó sộc tới, thôi thúc, giục giã, nàng vùng chạy... Còn nửa dãy phố nữa là nàng sẽ tới nhà anh. Trên vai nàng, từ những nếp cuộn của chiếc khăn len màu ô-liu, Cerruti 1881 toả hương dữ dội hơn bao giờ. 17h30, 31/3/2006 lon to THẾ GIỚI SEX